Chiếc áo Cà sa 8

Lobsang trở về và bàng hoàng sau chuyến du hành bằng thể vía đầu tiên của mình. Các lạt ma giải thích tại sao cậu lại không thấy được thân xác mình đang nằm dưới đất mà chỉ thấy người khác. Cậu tiếp tục ngẫm nghĩ…

Chương 8

Người dịch: Dũng.TTQ

Đâu đó có tiếng chuông ngân lên. Tiếng đầu tiên ngắt một khoảng, rồi cứ thế nhanh chóng tăng dần. Boong! Boong! Đã ngừng rồi. Lạ nhỉ, tôi nghĩ. Tiếng chuông ư? Thật dễ chịu, nó đang ngân cùng với nhịp tim của tôi. Trong một khoảnh khắc, tôi trở nên hoảng sợ; hay là tôi đã ngủ quên và muộn giờ lễ ở đền nhỉ? Tôi lờ mờ mở mắt ra và cố nhìn xem mình đang ở đâu. Điều này thật kỳ lạ! Tôi không thể tập trung. Tất cả những gì tôi có thể nhận ra là chín cái đốm trắng khủng khiếp đính trên đỉnh các vệt sọc màu vàng nghệ. Não tôi kêu răng rắc trong nỗ lực để suy nghĩ. Tôi đã ở đâu vậy? Chuyện gì đã xảy ra thế? Tôi đã rơi từ mái nhà hay từ đâu chăng? Tôi ủ rũ nhận thấy có nhiều cơn đau nhức khác nhau, đang tràn vào trong ý thức.

A, đúng rồi! Tất cả quay trở về một cách vội vàng. Cùng với sự nhận biết đã quay lại, tôi có thể tập trung bằng mắt, và nhìn thấy những gì trước mặt. Tôi đang nằm ngửa trên nền đá lạnh buốt. Cái bát của tôi bằng cách nào đó đã trượt từ trước ra sau trong áo choàng của tôi, và giờ đang đỡ lấy trọng lượng của tôi chỗ giữa hai bả vai. Chiếc túi lúa mạch của tôi, bằng da cứng, bị tôi đè bên dưới và làm xương sườn bên trái của tôi như muốn gãy. Tôi xúc động cử động, và nhìn đăm đăm vào chín vị lạt ma đang ngồi quan sát tôi. Họ chính là những đốm màu trắng khủng khiếp dính trên các vệt sọc màu vàng nghệ! Tôi hy vọng họ không biết tôi đã nghĩ gì.

 “Có chứ, Lobsang, chúng ta biết chứ!” một vị cười. “Những suy nghĩ thần giao cách cảm của con rất rõ ràng về điều đó. Nhưng con sẽ phát triển từ từ. Con đã làm tốt, và hoàn toàn khẳng định cho những nhận xét từ Thầy hướng dẫn của con”. Tôi rón rén ngồi dậy, nhận được một cái ẩy mông nồng ấm phía sau lưng cùng tiếng gừ gừ ầm ĩ. Con mèo già quay lại đối mặt với tôi, và chạm vào tay tôi như một dấu hiệu cho thấy nó muốn xù lông lên. Tôi ngập ngừng thu thập lại những mảnh trí óc đang bị phân tán của mình, và tự hỏi điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Vị lạt ma đã đi cùng tôi nói: “À, Lobsang, đây là một kinh nghiệm tốt khi thoát ra khỏi thân xác”. “Chúng ta phải thực hành thường xuyên để con có thể thoát ra khỏi cơ thể mình dễ dàng như cởi bỏ chiếc áo choàng của con”. “Nhưng, thưa Lạt ma đáng kính”, tôi bối rối nói, “con không rời bỏ thể xác của mình, con đã mang nó theo mình!”. Vị lạt ma dẫn đường há hốc mồm kinh ngạc: “Ý con là sao?” ngài kêu lên. “Con đã du hành trong thể vía với ta mà”. “Kính thưa Lạt ma”, tôi đáp lại, “con đã đặc biệt quan sát, và thấy thân xác con không nằm trên sàn, vì vậy con chắc chắn đã mang nó theo”.

Vị lạt ma già, nhăn nheo, nhỏ nhất trong chín vị, mỉm cười và nói: “Lobsang, con đang phạm một sai lầm thông thường, vì con vẫn còn bị mê hoặc bởi các giác quan”. Tôi nhìn ngài, và thành thật mà nói, tôi không biết ông đang nói về cái gì. Đối với tôi, dường như ông ấy đã mất trí. Vì, tôi nghĩ, chắc chắn tôi biết rằng tôi có nhìn thấy cơ thể của chính mình hay không? Và nếu tôi không nhìn thấy cơ thể của mình, thì chắc chắn nó đã không ở đó. Tôi cho rằng qua ánh mắt hoài nghi của mình, chắc hẳn họ thấy rằng tôi đang không tiếp thu những gì họ đang nói, những gì họ đang ám chỉ. Một lạt ma khác đang ra hiệu cho tôi chú ý. “Ta sẽ giải thích cho con về việc này, Lobsang”, một vị khác nói, “và ta muốn con chú ý lắng nghe, vì những gì ta phải nói chỉ là điều cơ bản, nhưng lại là vấn đề khiến nhiều người bối rối. Con đang nằm trên sàn, và do đây là lần đầu tiên con du hành bằng thể vía một cách có ý thức nên chúng ta giúp con. Chúng ta đã giúp con nới lỏng thể vía ra khỏi thể xác con. Và do việc này được thực hiện bởi chúng ta, những người đã có kinh nghiệm thực hiện cả đời, nên con không cảm thấy bất kỳ sự chấn động, hoặc sự xáo trộn nào. Vì vậy, rõ ràng là con không biết rằng mình đã ra khỏi cơ thể”. Tôi nhìn ngài, và nghĩ về điều đó. Tôi nghĩ, vâng, điều đó đúng, tôi không hề biết rằng mình đã xuất vía, không ai nói rằng tôi sẽ xuất vía. Vì vậy nếu họ không nói cho tôi biết điều gì sẽ xảy ra, thì làm sao tôi có thể có cảm giác lìa khỏi xác? Nhưng, sau đó tôi nhớ lại rằng tôi đã nhìn xuống và đã không nhìn thấy cơ thể của mình nằm trên sàn, điều mà lẽ ra tôi phải thấy, trừ khi tôi vẫn còn ở trong cơ thể. Tôi lắc đầu như muốn rũ bỏ điều rắc rối này; Tôi cảm thấy tất cả những điều này trở nên quá khó hiểu với tôi. Tôi đã ra khỏi thể xác, nhưng thể xác của tôi không ở đó. Vậy nếu nó không ở đó thì nó ở đâu? và tại sao tôi lại không thấy nó nằm ở đâu đó? Ngay lúc đó, con mèo già ẩy một cái mông khác cho tôi và bắt đầu rúc, nảy lên nảy xuống trên đùi, cào móng vuốt vào áo choàng của tôi, và kêu gừ gừ ngày càng to hơn; để nhắc nhở tôi cũng phải chú ý đến sự hiện diện của nó. Vị lạt ma đang nói, bật cười nhận xét: “Đấy! Anh mèo già ngày đang bảo con hãy kỳ cọ sạch bộ não, để con có thể nhận thức được!”

Tôi xòe ngón tay cào cào vào lưng con mèo. Tiếng gừ gừ của nó lớn dần, rồi đột nhiên nó ngồi phịch xuống, duỗi ra. Con mèo to lớn, già nua, đầu thò ra một bên đùi tôi và hai chân thò ra phía bên kia, đuôi duỗi thẳng. Những con mèo này lớn hơn loại mèo bình thường, chúng thường hung dữ. Nhưng tất cả những con mèo trong đền thờ của chúng tôi dường như đều coi tôi là anh em hay gì đó, vì chắc chắn tôi cũng yêu thích chúng như chúng yêu thích tôi.

Vị lạt ma đã nói chuyện với tôi trước đó, quay sang tôi nói: “Cứ để con mèo như thế, nó có thể nằm trên người con trong khi chúng ta nói chuyện. Có lẽ nó sẽ thường xuyên thúc mạnh con để nhắc nhở con chú ý. Giờ thì! Người ta chỉ nhìn thấy được những gì mà người ta mong đợi mình sẽ thấy. Thường thì họ không thấy được những điều hiển nhiên nhất. Chẳng hạn như…”, ngài nhìn tôi chăm chú khi nói tới đây, “có bao nhiêu người dọn dẹp ở hành lang khi con đi qua? Ai là người đang quét dọn trong kho lúa mạch? Và nếu Đức Tối cao cho gọi con đến, rồi yêu cầu con kể cho ngài nếu con nhìn thấy bất kỳ ai ở hành lang nội viện, con sẽ nói gì với ngài?” Ông dừng lại một chút để xem liệu tôi có định đưa ra nhận xét gì không. Và khi tôi nhìn chằm chằm vào ông với cái miệng đang há hốc, ông tiếp tục: “Con có lẽ sẽ nói rằng con không nhìn thấy ai ở hành lang nội viện, vì cái người lúc đó đang ở hành lang là người có mọi quyền có mặt ở đó. Người đó luôn ở đó, và là người hoàn toàn đúng đắn khi có mặt trong hành lang đó, đến mức con thậm chí không nhận ra anh ta. Vì vậy, con sẽ nói rằng con không thấy ai chỗ hành lang đó”.

Một lạt ma khác xen vào, gật đầu một cách đầy kinh nghiệm khi ông nói thêm: “Các giám thị thường gặp một số khó khăn khi họ tiến hành một cuộc điều tra; họ có thể hỏi xem có người lạ nào không, hoặc có ai đã từng ở trong một tòa nhà nào đó không? Và lúc đó người trông coi tòa nhà cũng sẽ nói rằng, không, không có ai vào cả. Có thể đã có một đám lễ đã đi qua, các giám thị đã đi qua, có thể đã có một hoặc hai lạt ma, và thậm chí có thể có một sứ giả từ tu viện khác. Nhưng bởi vì những người đó quá phổ biến; nghĩa là, vì họ thường xuất hiện ở đó; hành trình của họ sẽ không được chú ý. Và mặc dù ở trong tầm quan sát, họ cũng có thể trở nên vô hình.

Một người vẫn chưa lên tiếng gật đầu: “Đúng vậy. Bây giờ ta hỏi con, Lobsang, con đã đến ngôi đền này bao nhiêu lần? Tuy nhiên, theo ánh mắt của con mới đây, con thậm chí còn không nhìn thấy cái giá đỡ mà chúng ta đặt viên tinh thể trên đó. Giá đỡ đó đã ở đây khoảng hai trăm năm, nó vẫn chưa ra khỏi ngôi đền này, nhưng con nhìn nó như thể con mới nhìn thấy lần đầu tiên. Nó đã ở đây từ trước, nhưng vì nó là chuyện bình thường đối với con, do đó nó vô hình”.

Vị lạt ma đã đi cùng tôi trong chuyến du hành bằng thể vía qua Potala, mỉm cười khi ông tiếp tục: “Lobsang, con không biết chuyện gì đang xảy ra, con không biết mình sắp thoát ra khỏi cơ thể, do đó, con đã không chuẩn bị để nhìn thấy cơ thể của con. Vì vậy, khi con nhìn, con nhìn vào các Lạt ma đang ngồi trong vòng tròn, và sự chú ý của con đã cẩn thận né tránh cơ thể của chính mình. Chúng ta nhận được điều tương tự trong thuật thôi miên. Chúng ta có thể thôi miên một người tin rằng anh ta hoàn toàn ở một mình trong phòng, và sau đó người ấy ở trong trạng thái thôi miên sẽ nhìn thấy mọi thứ trong phòng, ngoại trừ người ở chung phòng với anh ta. Và người bị thôi miên khi bị đánh thức, sẽ tuyên thệ rằng anh ta đã chỉ ở có một mình. Cũng bằng cách tương tự, con cẩn thận tránh nhìn vào nơi cơ thể con nằm. Thay vào đó, con nhìn quanh chu vi vòng tròn, con nhìn quanh ngôi đền để tránh một điểm mà con nghĩ rằng mình muốn thấy”.

Điều này thực sự làm tôi phải suy nghĩ; Tôi đã nghe một cái gì đó như thế trước đây. Tôi đã từng thấy một nhà sư già bị chứng đau nửa đầu hành hạ. Như ông ấy đã giải thích cho tôi sau đó, những thứ mà ông ấy nhìn thì không có ở đó, nếu ông ấy nhìn vào một vật trước mặt mình thì ông ấy chỉ có thể nhìn thấy những thứ bên cạnh. Nhưng nếu ông ấy nhìn sang bên cạnh thì lại có thể nhìn thấy những thứ phía trước mặt mình. Ông ấy nói với tôi rằng, điều đó giống như phải nhìn qua một cặp ống gắn trước mắt, vì vậy ông như một người đang phải đeo miếng che mắt.

Một lạt ma, lúc đó tôi không biết người này, nói: “Điều hiển nhiên thường có thể trở nên vô hình vì một vật càng phổ biến, càng quen thuộc thì nó càng trở nên ít được chú ý. Ví dụ như người đàn ông chở lúa mạch: Con nhìn thấy anh ta hàng ngày, nhưng con không nhìn thấy anh ta. Anh ta là một nhân vật quen thuộc đến nỗi nếu ta hỏi con sáng nay ai đã đến đây, con sẽ nói, không có ai. Bởi vì con sẽ không coi người chở lúa mạch là một người, mà chỉ là một thứ luôn làm một việc nhất định vào một thời điểm nhất định”.

Đối với tôi, điều đáng chú ý nhất là tôi nằm trên mặt đất, nhưng sau đó lại không thể nhìn thấy cơ thể của chính mình. Tuy nhiên, tôi đã nghe nói nhiều về thuật thôi miên và du hành bằng thể vía, nên tôi hoàn toàn có thể chấp nhận lời giải thích của họ.

Vị lạt ma già, nhăn nheo mỉm cười với tôi khi nhận xét: “Chúng ta sẽ sớm hướng dẫn cụ thể hơn cho con, để con có thể rời khỏi cơ thể của mình một cách dễ dàng bất cứ lúc nào. Giống như mọi người khác, con đã và đang thực hiện các chuyến du hành bằng thể vía mỗi đêm, du hành đến những nơi xa xôi, rồi sau đó quên mất nó. Nhưng chúng ta muốn cho con thấy thật dễ dàng để con có thể thoát ra khỏi cơ thể của mình bất cứ lúc nào, và thực hiện một chuyến du hành bằng thể vía, rồi trở lại cơ thể của con mà vẫn giữ được đầy đủ kiến thức về tất cả những gì con đã thấy, tất cả những điều con đã làm. Nếu con có thể làm điều đó, con có thể đi du lịch đến những thành phố lớn trên thế giới và sẽ không còn bị cô lập ở Tây Tạng này, mà còn có thể có được những kiến thức về tất cả các nền văn hóa”.

Tôi đã từng nghĩ về điều đó. Tôi đã thường tự hỏi làm thế nào mà một số lạt ma cao cấp của chúng tôi dường như có toàn tri. Họ dường như là những thực thể tách biệt, xa rời những tầm thường của cuộc sống hàng ngày. Họ có thể kể về những gì đang xảy ra bất cứ lúc nào, ở bất kỳ vùng nào trên đất nước chúng tôi. Tôi nhớ có một lần, tôi cùng với Thầy hướng dẫn của mình đã đến gặp một ông già, rất già. Tôi đã được giới thiệu cho ngài ấy, và chúng tôi đã nói chuyện; hay đúng hơn là Thầy hướng dẫn của tôi và ngài ấy đã nói chuyện, còn tôi lắng nghe một cách kính trọng. Đột nhiên, ông lão giơ tay lên và nói: “Tôi được triệu tập!” Sau đó, ông rút lui, ánh sáng dường như vụt tắt khỏi cơ thể ông. Ông ngồi đó bất động, trông như một người đã chết, trông như một cái vỏ trống rỗng. Thầy tôi ngồi yên, và ra hiệu cho tôi cũng im lặng. Chúng tôi ngồi bên nhau, tay đan vào lòng. Không nói, không cử động. Tôi quan sát thứ dường như là một cái bóng trống rỗng bằng sự quan tâm lớn lao. Có lẽ là mười, hoặc là hai mươi phút. Rất khó để ước tính thời gian trong trường hợp đó. Không có gì xảy ra. Sau đó, sắc màu sinh khí quay trở lại với ông lão. Cuối cùng thì ông cũng cựa mình và mở mắt ra. Rồi sau đó, tôi sẽ không bao giờ quên điều ấy, ông kể cho Thầy hướng dẫn của tôi chính xác những gì đang xảy ra ở Shigátsê, cách chúng tôi khá xa. Tôi nhận ra rằng đây là một hệ thống liên lạc tốt hơn nhiều so với tất cả các thiết bị đáng chú ý mà tôi đã nghe nói tại thế giới bên ngoài.

Tôi muốn có thể du hành bằng thể vía đến bất cứ đâu. Tôi muốn có thể di chuyển qua núi, qua biển và đến những vùng đất xa lạ. Và những vị này, chín Lạt ma này sẽ dạy tôi!

Con mèo già ngáp dài, làm cho bộ râu của nó rung lên, rồi nó đứng dậy vươn vai và giãn ra đến khi tôi tưởng nó gần như bị gãy làm đôi. Sau đó, anh ta lững thững bước đi, ngạo nghễ len lỏi giữa hai vị lạt ma, và biến mất vào bóng tối phía sau một trong những bức tượng thiêng. Vị lạt ma già, nhăn nheo nói: “Ồ, đã đến lúc chúng ta phải kết thúc buổi làm việc, vì chúng ta không đến đây để dạy Lobsang dịp này, đây chỉ là một dịp tình cờ. Chúng ta phải bắt tay vào công việc khác của mình và sẽ gặp lại Lobsang khi Thầy hướng dẫn của cậu ấy trở lại”.

Một vị khác quay sang tôi và nhìn tôi chằm chằm: “Con sẽ phải học thật cẩn thận, Lobsang. Con có rất nhiều việc phải làm trong cuộc sống, con sẽ gặp khó khăn, đau khổ. Con sẽ đi xa và thường xuyên. Nhưng cuối cùng con sẽ đạt được điều là nhiệm vụ của mình. Chúng ta sẽ cung cấp cho con các khóa đào tạo cơ bản”. Họ đứng dậy, lấy viên tinh thể ra khỏi giá đỡ và rời khỏi ngôi đền.

Tôi ngồi đó thắc mắc. Một nhiệm vụ ư! Khó khăn ư? Nhưng tôi luôn được bảo rằng tôi có một cuộc sống khó khăn phía trước, luôn được bảo rằng tôi có một nhiệm vụ, vậy tại sao họ lại nhúng tay vào nó như thế? Nhưng mà, tại sao tôi phải làm nhiệm vụ, tại sao tôi luôn là người phải chịu đau khổ? Tôi càng nghe về nó, tôi càng không thích nó. Nhưng tôi muốn du hành bằng thể vía, và quan sát tất cả những điều tôi đã nghe nói. Tôi rón rén đứng dậy, nhăn mặt và lẩm bẩm những lời không hay khi những cơn đau lại xuyên thấu qua chân. Nào là kim và ghim, lại có một vài vết sưng tấy và bầm tím do tôi bị ngã mấy lần, cùng một cơn đau giữa hai bả vai nơi tôi đã tì vào cái bát của mình. Nghĩ đến đấy, tôi thò tay vào trong áo choàng của mình để sắp xếp đồ đạc vào những vị trí quen thuộc của chúng. Sau đó, nhìn quanh lần cuối, tôi rời khỏi ngôi đền.

Đến cửa, tôi vội vàng quay trở lại, tới những ngọn đèn bơ đang lập lòe. Tôi dập tắt chúng từng cái một, vì đó là nhiệm vụ của tôi. Tôi là người cuối cùng rời đi, vì vậy tôi phải là người tắt đèn. Khi tôi tìm đường xuyên qua bóng tối, đến chỗ có ánh sáng yếu ớt từ cánh cửa đang mở, lỗ mũi của tôi bị tấn công bởi mùi hăng hắc từ những chiếc bấc đang cháy âm ỉ. Đâu đó trong góc, một ngọn đèn có bấc đỏ rực đang tàn lụi.

Tôi đứng một lúc ở cửa để quyết định xem mình nên đi đường nào. Sau đó, với quyết tâm của mình, tôi quay lại và đi về phía bên phải. Ánh sao rực rỡ tràn vào qua cửa sổ, mang lại vẻ ngoài ánh xanh bàng bạc cho mọi thứ. Tôi rẽ vào một góc hành lang và đột ngột dừng lại, suy nghĩ. Đúng thế, dĩ nhiên là họ đúng. Tôi đứng đó một lúc suy nghĩ. Tôi chợt nhớ ra rằng hết lần này đến lần khác tôi đi ngang qua một vị sư già đang ngồi trong một căn buồng nhỏ, và mặc dù tôi nhìn thấy ông ấy hàng ngày, tôi thậm chí không bao giờ để ý đến ông ấy. Tôi bước lùi lại khoảng mười thước, và nhìn vào trong. Ông ấy đang ở trong một ô đá nhỏ phía xa hành lang, đối diện với các cửa sổ. Ông đã bị mù, ngồi đó trên sàn không ngừng quay một Bánh xe Cầu nguyện. Thật là một bánh xe lớn; quay, quay, và quay. Bất cứ khi nào có ai đi ngang qua đều nghe tiếng “cạch, cạch, cạch” không ngừng từ cái kinh luân của vị sư già. Giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác ông ngồi đó, tin rằng nhiệm vụ được giao trong đời ông là giữ cho Bánh xe Cầu nguyện được quay, và đó là tất cả mục đích sống của ông. Chúng tôi, những người đã quá thường xuyên đi qua lối này, không bị ảnh hưởng bởi sự quay của Bánh xe. Chúng tôi đã quá quen với việc đó đến nỗi chúng tôi không nhìn thấy vị sư già, cũng như không nghe thấy tiếng bánh xe của ông kêu lách cách.

Tôi đứng đó trong ô cửa tối và suy nghĩ khi Bánh xe đang kêu lách cách, còn ông già khẽ ngâm nga: “Om! Mani padme hum! Om! Mani padme hum!”. Giọng ông khàn khàn, những ngón tay vặn vẹo và xương xẩu. Tôi có thể nhận ra ông nhưng lờ mờ, còn ông hoàn toàn không biết gì về tôi. Quay kinh luân, quay kinh luân, như thể đã quay cái Bánh xe trong nhiều năm. Đã quay nó rất lâu trước khi tôi ra đời. Ông ấy sẽ xoay nó bao lâu nữa? Tôi tự hỏi. Nhưng điều này đã chỉ cho tôi thấy rằng mọi người sẽ là vô hình, nếu họ quá quen thuộc đến mức người ta không cần phải chú ý đến họ. Tôi cũng nhận ra rằng âm thanh còn là sự im lặng, nếu người ta đã quá quen với chúng.

Tôi nghĩ đến những lúc tôi ở một mình trong căn buồng tối tăm, rồi sau một lúc tôi sẽ nghe thấy tiếng ục ục và sột soạt của âm thanh từ cơ thể, máu chảy trong các tĩnh mạch và động mạch của cơ thể, rồi tôi nghe thấy tiếng thình thịch, thình thịch, thình thịch đều đặn của tim tôi đang bơm máu đi. Sau một thời gian, tôi thực sự có thể nghe được tiếng không khí thở ra từ phổi mình, và tiếng kêu cót két cùng tiếng tách nhẹ của các cơ kéo xương đến một vị trí khác khi tôi di chuyển. Tất cả chúng ta đều có những điều đó. Tất cả chúng ta đều là những cỗ máy ồn ào, tôi nghĩ; nhưng khi có những âm thanh khác thu hút sự chú ý, chúng ta chỉ không nghe thấy những âm thanh thường xuyên bao quanh mà không gây khó chịu cho mình.

Tôi đứng bằng một chân, và gãi đầu. Rồi tôi nhớ ra rằng đêm đã khuya lắm rồi, chẳng bao lâu nữa sẽ có tiếng gọi đi hành lễ lúc nửa đêm. Vì vậy, tôi không do dự nữa mà đặt cả hai chân xuống đất, kéo chặt áo choàng quanh người hơn và đi lên hành lang đến ký túc xá. Ngay khi lặt lưng xuống, tôi ngủ thiếp đi.

Giấc ngủ không phải là người bạn đồng hành lâu dài với tôi; Tôi vặn vẹo và xoay người, cọt kẹt và rên rỉ khi nằm, và nghĩ về đời sống trong một tu viện. Xung quanh tôi là những cậu bé thở khò khè và lẩm bẩm mớ trong giấc ngủ. Tiếng ngáy của họ tăng lên và giảm xuống trong màn đêm. Một cậu bé bị viêm amidan đang phát ra tiếng bong bóng “bộp bộp, bộp bộp” cho đến khi tôi tuyệt vọng đứng dậy và lật cậu ấy nằm nghiêng. Tôi nằm ngửa, suy nghĩ, lắng nghe. Từ đâu đó, vang lên tiếng click-click đơn điệu của Bánh xe kinh luân, khi một nhà sư nào đó xoay nó không ngừng để những lời cầu nguyện của ông có thể bay xa. Từ đằng xa, vọng lại tiếng lộp cộp nhát gừng khi ai đó cưỡi ngựa trên con đường bên ngoài cửa sổ. Màn đêm trôi đi. Thời gian như ngừng lại. Cuộc sống này là một sự chờ đợi, chờ đợi không ngừng, nơi không có gì di chuyển, nơi tất cả vẫn còn ngoại trừ tiếng ngáy, tiếng lách cách của Bánh xe cầu nguyện và tiếng vó ngựa. Chắc tôi đã ngủ gật…

Tôi mệt mỏi ngồi dậy. Sàn nhà cứng và rắn. Cái lạnh của đá đang len lỏi vào tận xương tủy. Ở đâu đó một cậu bé lẩm bẩm rằng cậu muốn gặp mẹ. Tôi khó khăn đứng dậy và di chuyển đến cửa sổ, cẩn thận tránh những cơ thể đang nằm ngủ xung quanh. Lạnh dữ dội, nguy cơ là sẽ có tuyết rơi. Trên dãy Himalaya bao la, bình minh đang tỏa ra những luồng ánh sáng, những ngón tay đầy màu sắc đang tìm kiếm vào Thung lũng của chúng tôi, chờ đợi để thắp sáng một ngày mới.

Lớp bụi tuyết luôn bay từ những đỉnh núi cao nhất giờ đây được tỏa sáng bởi ánh nắng vàng chiếu vào lớp dưới. Trên đỉnh xuất hiện những vầng cầu vồng lấp lánh, dao động và bùng nở trước những cơn gió lớn bất chợt. Khắp bầu trời tỏa ra những chùm ánh sáng sống động khi mặt trời dần ló dạng qua những ngọn núi, hứa hẹn một ngày mới sớm đến. Những ngôi sao mờ dần. Bầu trời không còn là một vòm màu tím; sáng dần, sáng dần và chuyển thành màu xanh nhàn nhạt. Cả dãy núi như được dát vàng khi bầu trời sáng dần lên. Dần dần, quả cầu mặt trời chói lọi leo lên trên các con đèo và tỏa sáng rực rỡ huy hoàng vào thung lũng của chúng tôi.

Cái lạnh thật dữ dội. Những tinh thể băng từ trên trời rơi xuống, rồi bị nứt ra trên mái nghe như tiếng nhạc leng keng. Cái giá buốt, lạnh sắc của bầu không khí làm cho xưởng tủy người ta như bị đóng băng. Đúng là một kiểu khí hậu đặc biệt, tôi nghĩ. Đôi khi quá lạnh đến nỗi tuyết rơi, tuy nhiên đôi lúc vào giữa trưa, trời lại nóng một cách khó chịu. Sau đó, trong nháy mắt, một cơn bão lớn sẽ nổi lên và thổi bay tất cả trước mặt nó. Trên núi bao giờ cũng có tuyết, tuyết dày, nhưng trên những đoạn lộ thiên, gió quét tuyết đi nhanh như khi nó rơi xuống. Đất nước của chúng tôi cao và có không khí trong lành. Không khí loãng và trong đến mức có rất ít nơi trú ẩn khỏi các tia cực tím (hoặc sinh nhiệt) của mặt trời. Vào mùa hè nơi chúng tôi, một nhà sư có thể ra mồ hôi nhễ nhại trong chiếc áo cà sa của mình. Rồi sau đó, khi một đám mây che khuất mặt trời trong giây lát, nhiệt độ giảm xuống nhiều độ dưới mức đóng băng, tất cả chỉ trong vài phút.

Chúng tôi phải chịu đựng rất nhiều những cơn bão gió. Rào cản vĩ đại của dãy Himalaya đôi khi cản trở những đám mây hình thành phía bên Ấn Độ, gây ra hiện tượng nghịch nhiệt. Sau đó, những cơn gió hú sẽ tràn qua các mỏm núi và lao xuống thung lũng của chúng tôi, quét sạch mọi thứ trước nó. Những người lang thang ra ngoài trong cơn bão phải đeo khẩu trang bằng da, có nguy cơ bị trầy xước do bụi đá bị cuốn theo gió, từ những đỉnh núi cao nhất tràn xuống. Những du khách bị mắc kẹt trên đèo núi sẽ có nguy cơ bị thổi bay, trừ khi họ cảnh giác và hành động nhanh chóng. Lều trại và những tài sản khác của họ bị thổi bay trong không trung, quay cuồng rách rưới và đổ nát, như đồ chơi của những cơn gió vô tâm.

Đâu đó bên dưới, trong buổi lờ mờ sáng, một con bò Tây Tạng rống lên thê lương. Như là tín hiệu, những tiếng kèn vang lên từ chỗ mái cao phía trên. Những tiếng tù và trầm rộn ràng, vang vọng, dội lại rồi hòa vào một bản hòa tấu âm thanh, giống như một số hợp âm được chơi trên một cây đại phong cầm. Xung quanh tôi có muôn vàn âm thanh của một cộng đồng lớn đang thức dậy đón một ngày mới, một ngày mới của cuộc đời. Tiếng tụng kinh từ ngôi đền, tiếng ngựa hí, tiếng càu nhàu lầm bầm của những cậu bé ngái ngủ, trần truồng run rẩy trong không khí lạnh buốt. Và âm điệu dịu dàng, là tiếng lách cách không ngừng của những Bánh xe Cầu nguyện xuyên qua các tòa nhà, quay đi quay lại không ngừng bởi những nhà sư già, rất già; những người nghĩ rằng đó là mục đích duy nhất của họ trong cuộc sống.

Thành phố đã xôn xao. Các hoạt động tăng lên theo thời gian. Những cái đầu cạo trọc nhìn một cách đầy hy vọng từ những ô cửa sổ mở, ước mong một ngày ấm áp hơn. Một đốm đen, không hình thù, không hình dạng, chao đảo rơi từ đâu đó phía trên, vượt qua tầm mắt tôi rồi va tảng đá bên dưới tạo nên tiếng nứt vỡ sắc nhọn. Chắc là bát của ai đó, tôi nghĩ. Bây giờ anh ta sẽ phải nhịn ăn sáng cho đến khi kiếm được cái bát khác! Bữa sáng? Tất nhiên rồi! Chúng tôi đã bắt đầu một ngày khác, một ngày mà tôi cần phải lấy lại sức; vì tôi hy vọng Thầy hướng dẫn kính yêu của tôi sẽ trở lại vào hôm nay. Và trước khi tôi có thể gặp ngài thì còn phải tham dự lớp học buổi sáng, hành lễ; nhưng trước hết là, phải ăn sáng!

Tsampa là một thứ không ngon miệng, nhưng đó là tất cả những gì tôi biết, ngoại trừ những món ngon rất hiếm, rất hiếm từ Ấn Độ. Vì vậy, tôi lê bước xuống hành lang, đi theo hàng các nam sinh và tu sĩ đang đi xuống sảnh nơi chúng tôi dùng bữa.

Tôi quanh quẩn một lúc ở lối vào, đợi những người khác ổn định chỗ ngồi, vì tôi bị run chân, bước đi có phần không vững. Khi mọi người xung quanh đi lại, chắc chắn đe dọa đến tư thế của tôi. Cuối cùng, tôi bước vào và ngồi lên vị trí của mình giữa hàng đàn ông và đám con trai đang ngồi trên sàn. Chúng tôi ngồi xếp bằng (tất cả trừ tôi, và tôi ngồi với hai chân nhét dưới người). Có nhiều hàng người, có lẽ phải tới hai trăm năm mươi người một lúc. Khi chúng tôi ngồi đó, các nhà sư phục vụ đến và múc tsampa. Đi dọc theo các hàng, chia đều cho mỗi người chúng tôi. Các nhà sư đứng ở hai bên của mỗi hàng, rồi sau đó theo tín hiệu đưa ra, họ mang thức ăn đi vào giữa các hàng. Tuy nhiên, không ai được phép ăn cho đến khi người quản lý ra hiệu. Cuối cùng, mỗi nhà sư và cậu bé đều có bát đầy tsampa; rồi những người phục vụ đứng sang một bên.

Một vị lạt ma già bước đến bục, một bục giảng cao hơn đầu chúng tôi để ông có thể nhìn xuống mọi người. Ông đứng đó và nhấc trang trên cùng tại cuốn sách của mình. Hãy nhớ rằng các trang sách của chúng tôi là những tờ dài, nên không được đóng lại với nhau như ở phương Tây. Vị lạt ma này nhấc trang trên cùng ra, rồi ra hiệu rằng ông đã sẵn sàng bắt đầu. Ngay lập tức, người chủ trì giơ tay, và hạ xuống ra hiệu cho chúng tôi bắt đầu bữa ăn. Khi chúng tôi ăn, giảng viên bắt đầu đọc Sách Thánh. Giọng ông cứ đều đều, dường như vang vọng khắp nơi, khiến cho phần lớn những gì ông nói trở nên khó hiểu.

Xung quanh phòng ăn, những giám thị luôn bước đi lặng lẽ, không tạo ra âm thanh nào ngoại trừ tiếng áo choàng của họ thỉnh thoảng sột soạt.

Trong các tu viện lạt ma trên khắp Tây Tạng, có một phong tục cố định là một giảng viên phải đọc cho chúng tôi nghe trong khi chúng tôi ăn. Bởi vì việc một người vừa ăn vừa nghĩ về thức ăn được coi là sai trái; thức ăn là một thứ thô thiển, chỉ cần thiết để duy trì cơ thể, để nó có thể là nơi cư ngụ của một linh hồn bất tử trong một thời gian ngắn. Vì vậy, mặc dù cần phải ăn, nhưng chúng tôi không được phép lấy điều ấy làm niềm vui. Giảng viên luôn luôn đọc Sách Thánh cho chúng tôi nghe, để trong khi chúng tôi tiếp nhận thực phẩm cho thể xác, thì tinh thần của chúng tôi có thức ăn cho linh hồn.

Các lạt ma cao cấp luôn ăn một mình, hầu hết thời gian đều nghĩ về một số văn bản thiêng liêng, hoặc nhìn vào một số đồ vật hay sách thiêng. Nói chuyện trong khi ăn là một hành vi phạm tội rất lớn, và bất kỳ kẻ xấu số nào bị bắt quả tang đang nói chuyện đều bị Giám thị lôi ra ngoài, và bắt nằm ngang qua ngưỡng cửa; để khi mọi người rời đi, họ phải bước qua người đó, khiến cho nạn nhân rất xấu hổ.

Bọn con trai chúng tôi luôn là người đầu tiên hoàn thành, nhưng sau đó chúng tôi phải giữ im lặng cho đến khi tất cả những người khác ăn xong. Thường thì giảng viên vẫn đọc mà không biết rằng mọi người đang đợi mình. Chúng tôi thường bị trễ giờ học vì giảng viên mải mê với bài đọc của mình, đến nối quên cả thời gian và nơi chốn.

Cuối cùng, giảng viên đọc sách cũng đọc xong và nhìn lên với đôi chút ngạc nhiên, rồi lật một nửa sang trang tiếp theo. Nhưng, ông đóng sách lại và buộc các băng lại với nhau. Nhấc cuốn sách ra, ông đưa nó cho một vị tăng phục vụ. Người này nhận lấy, cúi đầu và mang cuốn sách đi cất giữ cẩn thận. Sau đó, người chủ trì ra hiệu cho chúng tôi giải tán. Chúng tôi đi đến một phía hành lang, nơi có những chiếc túi da đựng cát mịn. Và với một nắm cát, chúng tôi cọ rửa bát ăn của mình. Sử dụng dụng cụ duy nhất mà chúng tôi có, tất nhiên, là các ngón tay mình; dụng cụ lâu đời nhất trong tất cả các loại dụng cụ. Chúng tôi cũng không dùng đến dao nĩa.

 “Lobsang! Lobsang! Đi xuống chỗ Thầy quản lý giấy, và lấy cho ta ba tờ loại đã dùng một mặt”. Một lạt ma trẻ đứng trước mặt tôi ra lệnh. Tôi lầm bầm một cách gắt gỏng và loạng choạng đi xuống hành lang. Đây là một trong những loại công việc mà tôi ghét. Bởi vì đối với việc đặc biệt này, tôi sẽ phải ra khỏi Potala và đi xuống tận Làng Shö, nơi tôi sẽ tới chỗ Thầy phụ trách in ấn, để lấy giấy.

Giấy rất hiếm, rất đắt ở Tây Tạng. Tất nhiên, nó hoàn toàn được làm thủ công. Giấy được coi như một đồ vật tôn giáo phụ, bởi vì nó gần như luôn được sử dụng cho những kiến ​​thức thiêng liêng, những lời thiêng liêng. Do đó giấy không bao giờ bị lạm dụng, và không bao giờ bị vứt bỏ. Nếu khi in sách mà chữ bị lem, giấy không bị tưa, thì mặt còn nguyên sẽ được dùng để dạy dỗ cho bọn nhóc chúng tôi. Luôn luôn có một nguồn cung dồi dào giấy hỏng cho những mục đích như vậy, bởi vì chúng tôi in ấn bằng các khối gỗ được khắc tay. Tất nhiên phải khắc ngược để in ra đúng chiều. Do đó, khi in thử chắc chắn có nhiều giấy bị hỏng.

Tôi đi ra khỏi Potala, đi xuống bằng lối sau phía dưới. Con đường rất dốc nhưng ngắn hơn nhiều, và không có bậc thang nào làm tôi mỏi chân. Ở đây, bằng lối sau phía dưới, bọn con trai chúng tôi sẽ đi xuống, thả mình từ bụi cây này sang bụi cây khác. Nếu trượt chân, chúng tôi sẽ tạo nên một đám bụi và làm thủng một lỗ lớn trên phần để ngồi của áo choàng, một vấn đề khó có thể giải thích sau này khi bị hỏi.

Tôi đi xuống con đường mòn nhỏ hẹp với những bụi cây nhô ra. Tại một khoảng trống nhỏ, tôi dừng lại và nhìn ra ngoài, nhìn về phía Lhasa với hy vọng nhìn thấy một chiếc áo choàng màu vàng rất đặc biệt, đang băng qua Cầu Ngọc lam; hoặc có thể là, ý nghĩ này mang lại niềm vui biết bao! đang đi dọc theo Đường Vành đai. Nhưng không, chỉ có những người hành hương, chỉ có những nhà sư lang thang, và một hoặc hai lạt ma bình thường. Vì vậy, tôi thở dài và càu nhàu cài câu, rồi lại tiếp tục trườn theo con đường xuống phía dưới.

Cuối cùng, tôi cũng đến Tòa Tư pháp và đi vòng phía sau để tới Văn phòng In ấn. Bên trong có một vị lão hòa thượng già nua, dường như dính đầy mực. Ngón cái và ngón trỏ xòe ra đang xử lý giấy và khuôn in.

Tôi đi tới và nhìn quanh, mùi của giấy và mực luôn mê hoặc tôi. Tôi nhìn vào một số tấm gỗ có chạm khắc tinh xảo sẽ được dùng để in những cuốn sách mới, và tôi mong chờ đến lúc mình có thể bắt tay vào chạm khắc vì đó là sở thích của tôi. Các tu sĩ chúng tôi luôn có cơ hội thể hiện kỹ năng của mình vì lợi ích của cộng đồng.

“Chà, cậu bé! Nào! Con muốn gì? Nhanh nào, Chuyện gì thế?” Thầy tu thợ in già đang nhìn tôi nghiêm khắc. Nhưng tôi biết ông ấy đã già, ông chỉ quát tháo thế thôi, thực ra tâm địa không có gì. Ông là một người tốt bụng, chỉ sợ những đứa nhóc sẽ vò nát những tờ giấy quý giá. Tôi nhanh chóng đưa ra thông điệp rằng tôi muốn có ba tờ giấy. Ông càu nhàu đáp lại, quay đi và nhòm ngó, nhìn chằm chằm trông như thể ông không chịu nổi khi cho đi những tờ giấy yêu quý của mình. Ông nhìn từng tờ giấy, rồi tiếp tục thay đổi suy nghĩ. Cuối cùng, tôi cảm thấy mệt mỏi với điều này, nhặt ba tờ rồi nói, “Cảm ơn ngài, Thầy in ấn đáng kính, con lấy ba tờ này. Họ sẽ nhận”.

Ông ấy quay lại và nhìn tôi với cái miệng há hốc, sững sờ. Lúc đó tôi đã đến cửa, với đầy đủ ba tờ giấy. Và khi ông đã định thần lại đủ để nói chuyện, thì tôi đã đi xa không nghe thấy nữa.

Tôi cẩn thận cuộn ba tấm giấy lại, để mặt hỏng quay ra ngoài. Sau đó, tôi nhét nó vào phía trước áo choàng của mình, và quay lên trở lại, đu tay qua những bụi cây cứng cáp.

Đến khoảng đất trống, tôi dừng lại lần nữa để lấy hơi. Nhưng thực ra tôi ngồi trên một tảng đá và nhìn một lúc về hướng Sera, nơi có Trại Hoa Hồng. Nhưng không thấy gì, giao thông vẫn bình thường, không có gì khác. Có thể có nhiều người buôn bán hơn thường lệ, nhưng không phải là người mà tôi muốn thấy.

Cuối cùng, tôi đứng dậy và tiếp tục cuộc hành trình lên trên, đi qua cánh cửa nhỏ một lần nữa, và tìm vị lạt ma trẻ đã cử tôi đi.

Anh ấy ở trong phòng một mình và tôi thấy anh đang sáng tác. Tôi lặng lẽ đưa ba tờ giấy cho anh. Anh nói: “Ồ! Em đã đi khá lâu. Em làm báo ở đó hả?”. Anh ta nhận lấy giấy mà không nói thêm lời nào, không cảm ơn. Vì vậy tôi quay người bỏ đi, tới lớp học, nghĩ xem làm cách nào để tôi hoàn thành hết ngày học cho đến khi Thầy hướng dẫn của tôi trở về.

Chiếc áo Cà sa 7

Người dịch: Dũng.TTQ

Chương bảy

Một tiếng vo ve bí ẩn xuyên qua tâm trí đang ngủ của tôi. Ở một nơi nào đó gần đây, rất nhiều sức mạnh tư tưởng đang được dồn vào không gian tiếp nhận. Năng lực thần giao cách cảm của tôi đã được khơi động. Tôi ngẩng đầu lên và mệt mỏi mở đôi mi đang rũ xuống. Ôi chao! Tôi mệt mỏi! Một cử động nhẹ trên đùi tôi, và một cái miệng yêu thương ngoạm lấy tay tôi siết chặt một cách trìu mến. “Gừ, gừ! ừm, ừm!” chú mèo giám hộ già kêu khẽ. Nó ngước nhìn tôi với vẻ thấu hiểu sâu sắc. Ánh sáng yếu ớt màu đỏ của ngọn đèn bơ phản chiếu từ đôi mắt xanh da trời dưới ánh sáng ban ngày. Nhẹ nhàng, nhẹ nhàng đến nỗi tôi chỉ nhận ra điều đó sau khi con mèo đã rời đi, con mèo trượt khỏi lòng tôi rồi hòa lẫn vào những cái bóng.

Ôi! Chân tôi tê cứng; những chiếc xương khó lành có cảm giác như đang kêu ken két, vết sẹo bỏng sâu và căng chặt, tạo cảm giác rằng nó sẽ tróc khỏi da bất cứ lúc nào để lại vết thương hở mới. Từng đợt đau đớn chạy dọc tứ chi và những cơn đau dữ dội xoáy dọc sống lưng, đe dọa xé toạc xương sườn của tôi khỏi vị trí của chúng. Tôi nằm im, thở hổn hển. Khi cơn co thắt dần biến mất, tôi thận trọng nhìn xung quanh. Ở đây, trong bóng tối màu tím đậm của bức tượng tượng thiêng vĩ đại, tôi như vô hình.

Các cửa sổ được viền thành những hình chữ nhật sẫm màu trên bức tường đầy những bóng đen đang nhảy múa. Qua những ô cửa không kính, tôi có thể nhìn thấy bầu trời đêm như một tấm màn đen bằng nhung mịn màng nhất được rắc những viên ngọc sáng lấp lánh. Những chấm kim cương, hồng ngọc và lam ngọc đang lấp lánh và xoay vòng trên đó. Ở đây, trong bầu không khí cao và loãng của Tây Tạng, người ta nhìn thấy những ngôi sao có màu sắc, không giống như những đốm sáng trắng như ở những nơi thấp hơn của thế giới. Ở đây không có những đám khói cuộn lên làm vấy bẩn sự tinh khiết của bầu trời và che khuất sự hùng vĩ của Thiên Đàng. Sao Hỏa có màu đỏ – như một viên hồng ngọc nhạt. Sao Kim có màu xanh lá cây, trong khi đốm nhỏ của Sao Thủy giống như một mảnh ngọc lam. Những dấu ngón tay mờ nhạt như bụi kim cương nghiền mịn kéo dài thành một dải xa hết mức tôi có thể nhìn thấy. Đêm nay không có trăng để ganh đua và lấn át những ánh sao yếu ớt.

Trên các bức tường, những cái bóng nhảy nhót đủ tư thế, có lúc như là những hình người khổng lồ kéo dài tới mái nhà, lúc thì như những chú lùn ngồi xổm đang quờ quạng trên sàn. Ở bên cạnh tôi, một ngọn đèn bơ đã bị hỏng. Từ cái đáy vỡ của nó phát ra tiếng “khục khục” khi bơ chảy ra, sau đó là tiếng “tạch!” khi chất lỏng kết đông rơi vãi trên sàn. Một bức họa về tôn giáo bằng vải đang tựa vào bức tường phía xa cạnh cửa sổ, phấp phới như thể nó là một con bướm đêm đang cố gắng vươn tới ngọn lửa bập bùng. Nó khẽ kêu phần phận khi nhô ra khỏi bức tường, rung lên, rồi rũ xuống vì kiệt sức, lặp đi lặp lại. Trong một khoảnh khắc, tôi như bị chóng mặt; Tôi đột ngột tỉnh dậy sau giấc ngủ, và bây giờ khi nhìn quanh, những cái bóng đang di chuyển, quằn quại và uốn éo, và những nhịp điệu khác nhau của những giọng nói ở phía bên kia bức tượng thiêng, những điều đó khiến tôi khá ngạc nhiên. Tôi nhìn lên, sang phía sau đầu của cái bóng dáng vĩ đại mà tôi đang ẩn náu. Trong một khoảnh khắc, tôi cảm thấy hoảng sợ, hình bóng đó đang đổ nhào, đổ nhào, nó sắp đổ ập lên người tôi và đè bẹp tôi. Các đường viền dao động, và tôi chuẩn bị ném mình sang một bên nhưng bị cản trở bởi đôi chân bị thương. Rồi đột nhiên – tôi gần như phá lên cười – đó là ảo ảnh của cuộc sống qua sự chập chờn của những cái bóng.

Lúc này cơn đau đã nguôi ngoai phần nào. Tôi chống tay và quỳ xuống rồi nhẹ nhàng rón rén đi quanh mép bức tượng để có thể nhìn vào phía bên trong, một trong những nơi sâu nhất của ngôi đền. Tôi chưa bao giờ thấy một buổi lễ nào trong ngôi đền này trước đây, bọn con trai chúng tôi bị loại trừ một cách cứng nhắc. Đối với bọn chúng tôi, đây là ngôi đền chính, hoặc là một trong những ngôi đền nhỏ phổ biến. Nhưng ngôi đền này, được khoét rỗng sâu trong đá bên dưới một cấu trúc nhân tạo. Tôi tự chuyện gì thế, và người ta đang làm gì ở đây. Thận trọng, kéo áo choàng quanh eo để khỏi vấp, tôi nhích người về phía trước và ngó quanh từ trong góc.

Điều này thật thú vị, tôi nghĩ. Trước mặt tôi là chín vị lạt ma trong một vòng tròn, tất cả đều mặc áo cà sa màu vàng nghệ, tất cả đều quay đầu về phía trung tâm của vòng tròn, và ở trung tâm trên một giá đỡ được chạm khắc công phu là thứ gì đó mà tôi không thể phân biệt rõ ràng. Dường như có một cái gì đó, nhưng dường như không có gì ở đó. Tôi rùng mình, và mái tóc đã cạo trên đầu tôi dựng đứng cứng ngắc như lính canh, vì những ngón tay lạnh giá của nỗi sợ hãi đã vươn ra và chạm vào tôi, kích động tôi đến mức tôi sẵn sàng chạy trốn. Tôi nghĩ rằng trên giá đỡ được chạm khắc đó là một sinh vật đến từ thế giới bóng tối, một sinh vật không thực sự tồn tại trong thế giới này, thế giới của chúng ta, và hầu như không có bất kỳ sự tồn tại nào ở thế giới khác, nơi nó đến từ. Tôi nhìn chằm chằm và chằm chằm.

Nó dường như là một thứ gì đó hình cầu, hoặc là hình cầu không có gì; cái đó gần như không có hình dạng, vậy mà lại gợn sóng! Tôi ước mình có thể đến gần hơn, và nhìn qua đầu của một trong những Lạt ma đang ngồi, nhưng như thế chắc chắn sẽ bị phát hiện. Thế là tôi ngồi xuống, dụi tay vào mắt, cố gắng xua đi cơn buồn ngủ, cố gắng làm cho tỉnh táo hơn, cố gắng làm nhìn nó rõ hơn trong sương mù và bóng tối này. Hài lòng rằng tôi đã làm hết sức có thể trước mắt mình, tôi lại chống tay và quỳ xuống, rồi nhìn chằm chằm, thay đổi vị trí một chút để có thể nhìn rõ hơn vào khu vực giữa vai hai vị lạt ma.

Tôi thấy –chợt nhận ra – rằng đây là một tinh thể đá khổng lồ, hoàn mỹ, hoàn hảo. Nó đặt trên giá đỡ có chạm khắc, thu hút sự chú ý của các lạt ma đang ngồi gần như thành kính trước nó. Họ chăm chú nhìn nó, nhưng không chăm chú đến mức thu hút con mắt vật lý của họ. Thay vào đó, họ dường như đang sử dụng con mắt thứ ba. Chà, tôi nghĩ, tôi cũng vậy, có khả năng thấu thị. Vì vậy, tôi không nhìn chằm chằm bằng mắt nữa, thay vào đó, tôi để khả năng thấu thị của mình phát huy tác dụng. Và bên trong tinh thể tôi nhìn thấy được màu sắc, những vòng xoáy, những vòng xoáy và một làn khói nhiễu loạn. Thật kinh ngạc, thật đáng sợ, tôi như đang rơi xuống, rơi xuống từ một độ cao bao la; rơi từ đỉnh cao của thế giới xuống vực thẳm. Nhưng, không, đó không phải là vực thẳm; thay vào đó, một thế giới trải dài trước mặt tôi, một thế giới nơi có những màu sắc khác nhau, những tiêu chuẩn khác nhau. Dường như tôi thấy thấp thoáng những người lang thang đầy khổ đau, đầy buồn bã; một số đầy đau đớn. Họ là những linh hồn lạc lối, những linh hồn không có sự hướng dẫn, những linh hồn đang suy nghĩ về một phương pháp giải thoát khỏi những lo lắng của họ.

Khi tôi ngồi mê mẩn ở đó, như thể tôi đang ở trên một thế giới khác tràn ngập ánh nắng, những bài tụng của các lạt ma cứ vang lên đều đều. Thỉnh thoảng một người đưa tay ra và rung một chiếc chuông bạc, một người khác cũng làm như vậy với một âm điệu khác. Và thế là họ tiếp tục tụng kinh, âm nhạc của họ lên xuống theo thang âm, không phải theo nốt ngắt âm như ở những nơi khác trên thế giới. Ở đây là một chuỗi các nốt, trượt từ nốt này sang nốt kia, hòa vào nhau thành những hợp âm vang vọng từ các bức tường và dội lại tạo ra các hợp âm của riêng chúng.

Người lãnh đạo nhóm lạt ma vỗ tay, người bên cạnh rung chuông, và người thứ ba trong nhóm cất giọng theo nghi thức tụng kinh “Ồ! Hãy lắng nghe Tiếng nói của Linh hồn chúng ta”. Và thế là họ tiếp tục lặp lại những khổ thơ lâu đời, lần lượt từng câu, rồi đồng thanh, nhịp giọng của họ lên xuống, lên xuống, nhấc tôi ra khỏi thời gian, ra khỏi chính tôi.

Sau đây là những lời cầu nguyện của họ:

Ồ! Lắng nghe tiếng nói của linh hồn chúng tôi,

Tất cả những người thu mình trong nơi hoang vu, không được bảo vệ.

Lắng nghe tiếng nói của linh hồn chúng tôi.

Rằng chúng ta có thể bảo vệ những ai không được bảo vệ.

Khi nén nhang đầu tiên được thắp lên và khói bốc

Hãy để Linh hồn và Niềm tin của bạn cũng trỗi dậy,

Rằng bạn có thể được bảo vệ.

*        *        *        *        *

Ồ! Lắng nghe tiếng nói của linh hồn chúng tôi,

Tất cả các bạn co rúm lại với nỗi sợ hãi trong đêm tối.

Lắng nghe tiếng nói của linh hồn chúng tôi,

Vì chúng tôi sẽ như ngọn đèn lồng sáng trong bóng tối,

Rằng chúng tôi có thể hướng dẫn những người lỡ độ đường đêm muộn.

Khi nén hương thứ hai được đốt lên và bừng sáng sự sống,

Hãy để Linh hồn bạn cảm nhận được Ánh sáng mà chúng tôi tỏa ra để bạn có thể được hướng dẫn.

Ồ! Lắng nghe tiếng nói của linh hồn chúng tôi,

Tất cả các bạn đang mắc kẹt ở vực sâu Vô minh.

Lắng nghe tiếng nói của linh hồn chúng tôi,

Sự giúp đỡ của chúng tôi sẽ là cây cầu để vượt qua vực thẳm,

Để hỗ trợ bạn tiến xa hơn trên Con đường.

Khi nén hương thứ ba được đốt lên và khói bốc,

Hãy để Linh hồn của bạn dũng cảm bước vào ánh sáng.

*        *        *        *        *

Ồ! Lắng nghe tiếng nói của linh hồn chúng tôi,

Tất cả các bạn là những người yếu đuối với sự mệt mỏi của Cuộc sống.

Lắng nghe tiếng nói của linh hồn chúng tôi,

Vì chúng tôi mang đến cho bạn sự yên nghỉ mà linh hồn bạn sẽ tiến lên một lần nữa,

Khi nén hương thứ tư được thắp lên và làn khói bay lơ lửng,

Chúng tôi mang tới sự yên nghỉ mà, làm mới lại, các bạn có thể thăng mới lại.

*        *        *        *        *

Ồ! Lắng nghe tiếng nói của linh hồn chúng tôi,

Tất cả các bạn những ai chế nhạo Lời Thiêng.

Lắng nghe tiếng nói của linh hồn chúng tôi.

Chúng tôi mang đến cho bạn sự bình yên! Rằng bạn có thể án trú trong Những Sự Thật Bất Tử.

Khi nén hương thứ năm được thắp lên để mang lại hương thơm cho cuộc sống,

Hãy mở tâm trí của bạn để bạn có thể biết!

Tiếng tụng kinh tắt lịm. Một lạt ma giơ chuông lên và rung leng keng khe khẽ; những người khác nhặt chuông của họ và rung. Đầu tiên, tất cả chúng vang lên một cách riêng biệt, và sau đó, theo một số khuôn mẫu được sắp đặt trước, tất cả chúng vang lên cùng nhau, tạo thành một hệ thống âm sắc đặc biệt vang vọng và dội lại, đồng thời thay đổi về cao độ và cường độ. Các lạt ma tiếp tục âm điệu sâu lắng đều đều của họ, lặp lại một lần nữa “Ồ! Hãy lắng nghe tiếng nói từ linh hồn chúng tôi”, họ rung chuông, đều đều. Hiệu quả thật thôi miên, thần bí.

Tôi tiếp tục nhìn những người xung quanh tôi – hay họ đang nhìn tôi? Có phải tôi đã ở một thế giới khác? Hay có phải tôi đang nhìn từ viên tinh thể? Ấn tượng mạnh mẽ của tôi là tôi đang ở một thế giới khác, nơi cỏ xanh hơn, bầu trời xanh hơn, nơi mọi thứ nổi bật trong sự tương phản sắc nét, sống động. Có một đám cỏ xanh dưới chân tôi. Trời ơi, tôi có thể cảm nhận được nó bằng những ngón chân trần của mình! Tôi có thể cảm thấy hơi ẩm thấm qua áo choàng nơi đầu gối tôi tiếp xúc. Tay tôi cũng vậy, khi tôi nhẹ nhàng chà xát chúng, dường như tôi cảm thấy cỏ và có lẽ đây đó một hoặc hai hòn đá. Tôi nhìn quanh mình với vẻ thích thú. Có những tảng đá lớn ở phía trước, bằng đá màu xanh lục, đây đó có những vệt trắng. Những tảng đá khác có màu sắc khác nhau; một thứ mà tôi đặc biệt bị thu hút có màu hơi đỏ, hơi đỏ với những sợi màu trắng sữa chạy qua. Nhưng điều khiến tôi ấn tượng nhất là cách mà mọi thứ trông nổi bật với hoàn toàn thực tế, cách mà mọi thứ trông bình thường hơn cả bình thường, với màu sắc tươi sáng hơn, với đường viền sắc nét hơn.

Có một làn gió nhẹ thổi qua, tôi có thể cảm nhận nó bên má trái của mình. Thật khá ngạc nhiên vì nó mang trên mình những mùi kỳ lạ, những hương thơm kỳ lạ. Cách đó không xa, tôi nhìn thấy thứ gì đó trông giống như một con ong. Nó đang vo ve, rồi nó đáp xuống và chui vào trong cái loa kèn của một bông hoa nhỏ mọc trên bãi cỏ. Tôi thấy tất cả những sự việc này mà không hề ý thức được thời gian trôi qua. Nhưng sau đó tôi trở nên hoảng hốt, cảnh giác, vì có cả một nhóm người đang tiến về phía tôi. Tôi nhìn họ nhưng tôi bất lực để di chuyển; họ đang tiến về phía tôi và ít nhiều tôi đang ở trên đường đi của họ. Ở đây khi tôi nhìn họ, tôi cảm thấy có gì đó rất không ổn. Một số người là những người già chống gậy và tập tễnh đi chân đất, mặc những bộ đồ rách nát. Những người khác rõ ràng là những người giàu có, nhưng không có cái vẻ sung túc chung mà sự giàu có thường mang lại, vì có một điều đặc biệt nổi bật trên những người đàn ông và phụ nữ này; họ đau khổ, sợ hãi, chỉ cần một cử động nhỏ nhất cũng khiến họ nhảy dựng lên và ôm chặt tay lên ngực mình. Họ lo lắng nhìn quanh, và dường như không ai để ý đến người bên cạnh mình; dường như họ cảm thấy mình đơn độc, bị lãng quên, lẻ loi và bị bỏ rơi trong một thế giới xa lạ nào đó.

Họ đi đến, mỗi người là một cá nhân chỉ biết đến sự tồn tại của chính mình, nhưng họ đến thành một nhóm, không ai chạm vào nhau, không ai biết đến sự hiện diện của người khác. Họ bị thu hút bởi những giọng nói mà tôi cũng có thể nghe thấy: “Ồ! Hãy lắng nghe Tiếng nói của Linh hồn chúng tôi, tất cả những kẻ lang thang vô định”. Tiếng tụng kinh đều đều tiếp tục và những người đó cũng đến. Và khi họ đến một vị trí nhất định, tôi không thể hiểu chuyện gì đang thực sự xảy ra, mỗi khuôn mặt sáng lên một niềm vui phi thường, mỗi người đứng thẳng hơn như thể ông ta hoặc bà ta đã nhận được một sự đảm bảo và do đó họ cảm thấy tốt hơn. Họ di chuyển cùng ra khỏi tầm nhìn của tôi. Thình lình có một tiếng chuông nghịch tai, và tôi cảm thấy trong người giật giật dữ dội như thể có ai đó đang lôi tôi đi, như thể tôi là một con diều ở cuối dây bị cuốn vào một cơn gió mạnh cố làm nó bay xa hơn.

Khi nhìn ra quang cảnh kỳ lạ đó, tôi có cảm giác rằng màn đêm đang buông xuống, vì bầu trời đang tối dần và màu sắc trở nên khó phân biệt hơn. Mọi thứ dường như đang co lại. Thu nhỏ lại ư? Làm thế nào chúng có thể thu nhỏ lại? Nhưng không nghi ngờ gì nữa, chúng đang co lại, và không chỉ chúng trở nên nhỏ hơn mà một làn sương mù giống như những đám mây phía trên bắt đầu che phủ thế giới đó, và khi ánh mắt kinh hoàng của tôi nhìn vào khung cảnh ngày càng nhỏ hơn, sương mù biến thành những đám mây sấm sét màu đen, bắn ra các tia chớp.

Thế giới ngày càng thu nhỏ lại, còn tôi thì ngày càng vươn cao. Khi nhìn xuống, tôi có thể thấy nó đang xoay vòng dưới chân mình. Và sau đó, tôi quyết định rằng dĩ nhiên là nó không thể xoay dưới chân tôi vì tôi đang quỳ trong đền thờ. Hay tôi đã ở đâu nhỉ? Tôi bối rối và choáng váng, và rồi một lần nữa lại xảy ra cú giật mạnh, khủng khiếp đó, cú giật gần như khiến não tôi văng ra khỏi đầu.

Khá chóng mặt trong giây lát, tôi đưa tay lên dụi mắt. Rồi tôi lại nhìn chằm chằm, và tôi thấy trước mắt tôi viên tinh thể trở lại là viên tinh thể, không còn là một thế giới nữa, chỉ là một viên tinh thể nằm đờ đẫn và vô hồn không có điểm sáng bên trong nữa. Nó đứng trên cái bệ chạm trổ của nó như một hòn đá, như một thần tượng, hay như bất cứ thứ gì, mà không phải là công cụ tuyệt vời nhất của những trải nghiệm tuyệt vời. Một Lạt ma chậm rãi đứng dậy và lấy từ dưới đế một tấm vải, giống như bằng nhung màu đen. Ông cung kính mở tấm vải ra và phủ nó lên viên tinh thể rồi gập nó vào. Ông cúi lạy ba lần về phía viên tinh thể, rồi quay về chỗ tiếp tục ngồi. Khi ông làm điều đó, ánh mắt kinh ngạc của ông đổ dồn vào tôi. Trong vài giây, có một sự im lặng choáng váng, sửng sốt; thời gian dường như đã bị tê liệt. Tôi chỉ có thể nghe thấy tim mình phát ra một tiếng “thình thịch!” rồi không còn nữa. Có cảm giác rằng toàn bộ thiên nhiên, toàn bộ thời gian, đang lắng nghe trong sự hồi hộp lặng yên xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

Có tiếng xì xào bàn tán giữa các Lạt ma. Người gần tôi nhất đứng dậy và cao hơn tôi chót vót. Ông là người cao lớn nhất trong số họ, nhưng trong đôi mắt kinh hoàng của tôi, ông ấy trông còn to hơn cả cung điện Potala. Ông ta định bắt đầu nói, nhưng sau đó một lạt ma khác nhận ra tôi. “Đó là cậu bé của ngài Mingyar, Lobsang”. Ông nói, khá nhẹ nhõm, “đây là cậu bé có khả năng ngoại cảm tốt nhất của chúng ta. Đưa cậu ta đến đây”. Vị lạt ma khổng lồ cúi xuống đặt hai tay dưới cánh tay tôi rồi nâng tôi lên, vì đã biết rằng tôi là “cậu bé của ngài Mingyar” nên ông biết rằng tôi không thể đi lại dễ dàng. Vì vậy ông đã cứu tôi khỏi rắc rối đó. Ông đưa tôi vào vòng tròn của các lạt ma, mỗi người nhìn tôi như thể họ chuẩn bị nhìn vào linh hồn tôi, như thể họ sẽ nhìn xuyên qua linh hồn tôi, vượt ra ngoài, và vào các cõi khác đến tận Chân ngã.

Tôi vô cùng sợ hãi vì tôi không biết rằng mình đã làm điều gì đặc biệt sai trái ở đây. Tôi đã chọn ngôi đền đặc biệt này, vì một số ngôi đền khác luôn đông đúc bởi những cậu bé không thực sự quan tâm đến thiền định. Tôi đã. Nhưng điều đó là gì vậy?. “Lobsang!” một lạt ma nhỏ bé, nhăn nheo nói. “Con đã làm gì ở đây?”. “Bạch Sư Phụ,” tôi trả lời, “từ lâu con đã có thói quen đến những ngôi đền nhỏ để tự mình hành thiền, và con ngồi sau một trong những Bức Tượng thiêng, nơi con không thể làm phiền bất kỳ ai khác đang hành thiền. Quả thực con không hề nghĩ đến việc xen vào buổi lễ của các ngài”. Trông tôi có vẻ khá xấu hổ, “Con đã ngủ quên, và con chỉ bị đánh thức khi nghe thấy các ngài bắt đầu buổi lễ.”

Ở phía bên trái, ngọn đèn bơ bị rò rỉ đã ngừng kêu xoạt, xoạt!, và đột nhiên có một tiếng rít ngắn phát ra khi ngọn bấc đang lơ lửng, giờ đã hết bơ lỏng, bị dập tắt trên miếng kim loại. Trong vài giây, nó cháy đỏ âm ỉ, và sau đó là mùi hắc, ôi của bấc cháy. Từ bên ngoài vòng tròn vang lên tiếng “Meo! Meo! Bạn mèo chen vào giữa hai lạt ma một cách quan trọng, đi về phía tôi với cái đuôi dựng đứng và húc tôi một cách hữu nghị. Tôi đưa bàn tay run rẩy luồn những ngón tay qua bộ lông của nó. Chú mèo quay sang tôi, đưa cái mông kia và kêu “Grừ, grừ!” rồi điềm tĩnh bước đi, chen giữa hai lạt ma khác. Các Lạt ma nhìn nhau, và một nụ cười yếu ớt nở trên môi họ. “Chà, người giám hộ của chúng ta ở đây biết rõ về con, Lobsang! Cậu ấy cũng nói tốt cho con, cậu ấy đảm bảo về sự tận tâm trong con và nói với chúng ta rằng con đã nói đúng sự thật.

Trong vài khoảnh khắc im lặng. Một trong những vị lạt ma trẻ hơn quay đầu lại và thấy con mèo ngạo nghễ bỏ đi. Ông cười khúc khích và quay trở lại nhóm. Vị lạt ma già, nhăn nheo, dường như rất lớn tuổi, và là người phụ trách buổi lễ, nhìn tôi rồi quay sang từng người trong nhóm mình, nhận xét: “Vâng, tôi nhớ rồi; đây là cậu bé phải có hướng dẫn đặc biệt. Chúng ta đang đợi Thầy hướng dẫn của cậu trở lại trước khi triệu tập cậu ấy đến đây. Nhưng vì cậu ấy ở đây, chúng ta hãy kiểm tra kinh nghiệm và khả năng của cậu ấy để chúng ta có thể đánh giá mà không bị ảnh hưởng bởi Người hướng dẫn quyền năng của cậu ấy”. Có tiếng rì rào đồng ý, và những gợi ý thì thầm nhưng tôi quá bối rối để có thể làm theo. Đây là những lạt ma có khả năng ngoại cảm cao, những nhà thấu thị cao siêu, những người giúp đỡ người khác. Và bây giờ tôi đang ngồi với họ, ngồi một cách run rẩy vì sợ hãi. Đó là sự thật. Nhưng tôi vẫn ngồi với họ. Một trong số họ quay sang tôi và nói: “Lobsang, chúng ta đã nghe rất nhiều về con, về năng lực bẩm sinh của con, về những khả năng của con và về tương lai của con. Trên thực tế, chính chúng ta đã điều tra Hồ sơ Xác suất để xem điều gì sẽ xảy ra trong trường hợp của con. Bây giờ, con có sẵn sàng trải qua một số thử thách để chúng ta có thể xác định mức độ khả năng của con không? Chúng ta muốn đưa con đi dạo trong thể vía, và trong thế giới bên dưới thể vía. Chúng ta muốn đưa con đi như một “con ma xuyên qua Potala của chúng ta”.

Tôi nghi hoặc nhìn ông. Dẫn đi sao? Làm thế nào mà họ nghĩ rằng tôi có thể đi bộ? Tôi có thể tập tễnh quanh các hành lang, nhưng đôi chân của tôi vẫn chưa đủ lành lặn để có thể đi bộ với bất kỳ mức độ tự tin nào.

Tôi do dự, nghĩ về điều đó, và xoắn gấu áo choàng của mình. Sau đó tôi trả lời: “Thưa các Thầy đáng kính! Con phụ thuộc vào quyền của các ngài, nhưng con phải nói rằng con không thể đi lại nhiều vì tai nạn của con; nhưng, như một nhà sư tốt, tôi đặt mình theo ý các ngài với hy vọng rằng Thầy hướng dẫn của con, Lạt ma Mingyar Dondup, sẽ chấp thuận quyết định của con”. Không ai cười, hay thậm chí mỉm cười, trước một tuyên bố nghe có vẻ rất khoa trương, vì tôi còn trẻ và thiếu kinh nghiệm. Và sau tất cả, tôi đã cố gắng hết sức và là người có thể làm được nhiều hơn những gì tốt nhất của người khác. “Lobsang, chúng ta muốn con nằm sấp, chúng ta phải để con nằm sấp vì chân của con sẽ không cho phép con ở tư thế thẳng đứng. Vì vậy, con phải nằm sấp. Vị lạt ma già cẩn thận lấy một chiếc đệm ngồi và đặt nó dưới đầu tôi, sau đó ông đặt hai bàn tay tôi đan vào nhau sao cho hai bàn tay đang đan vào nhau của tôi nằm giữa phần cuối của xương ức và rốn. Sau đó, họ tự sắp xếp lại chỗ ngồi; chuyển viên tinh thể sang một bên, cung kính đặt nó vào một nơi mà trước đây tôi không để ý, dưới chân một bức Tượng thiêng. Họ ngồi xung quanh tôi sao cho đầu tôi ở chính giữa vòng tròn. Một lạt ma rời khỏi nhóm và trở lại với những nén nhang và một lò than nhỏ. Tôi gần như tự làm mình thổ thẹn vì hắt hơi khi một làn khói bay ngang qua mặt khiến tôi ngứa mũi.

Kỳ lạ thay, mắt tôi ngày càng nặng trĩu. Tôi có cảm giác ngày càng uể oải, nhưng các lạt ma không nhìn tôi, họ đang nhìn vào một điểm xa phía trên tôi. Tôi cố mở mắt ra, và có thể nhìn thấy dưới cằm họ. Tôi có thể nhìn thấy tận lỗ mũi họ, đầu họ nghiêng quá xa đến nỗi tôi không thể thấy mắt họ. Không, họ không nhìn tôi, họ đang nhìn chỗ nào vậy?

Hương cháy âm ỉ, phát ra tiếng xèo xèo nho nhỏ mà trước đây tôi không để ý. Đột nhiên tôi nắm chặt tay hơn vì cả tòa nhà dường như đang rung chuyển. Tôi đã nghe nói về động đất, và tôi nghĩ rằng đột nhiên chúng tôi ở Potala bị ảnh hưởng bởi một trận động đất. Nỗi hoảng sợ dâng lên trong tôi. Và bằng nhiều nỗ lực, tôi cố gắng kìm nén nó, nghĩ rằng sẽ là một sự ô nhục đối với Thầy hướng dẫn của tôi nếu tôi lồm cồm bò dậy và lao ra khỏi đền, trong khi các vị lạt ma vẫn ngồi yên trên đó.

Sự lắc lư vẫn tiếp tục, và trong một khoảnh khắc tôi cảm thấy gần như phát ốm. Trong một khoảnh khắc, tôi cảm thấy mình đang trôi lên, tôi thấy rằng một trong những thanh xà của mái đền cách tay tôi chỉ vài inch. Tôi lơ đãng đưa tay ra để tránh, và thật kinh hoàng, tay tôi xuyên thẳng qua thanh xà, thậm chí không làm động đến lớp bụi bám trên bề mặt của nó.

Với sự kinh hoàng của trải nghiệm đó, tôi nhanh chóng chìm xuống và tiếp đất bằng chân của mình bên cạnh một Bức tượng thiêng. Tôi nhanh chóng chìa tay ra để đứng vững, vì biết rằng chân tôi không thể chống đỡ nổi. Nhưng một lần nữa, tay tôi xuyên qua tượng thiêng, còn chân tôi thì cứng cáp. Tôi không đau, không khó chịu. Tôi nhanh chóng quay lại, chắc nhóm các lạt ma vẫn ở đó. Nhưng không phải! Một người đã vắng mặt. Tôi nhận ra ông đang đứng bên cạnh tôi và tay ông sắp chạm vào khuỷu tay tôi. Ông trông sáng sủa, trông có vẻ to lớn hơn những người khác. Và khi tôi nhìn vào bức tượng thiêng, tôi thấy rằng mình cũng lớn hơn một chút so với trạng thái bình thường của tôi. Một lần nữa, một nỗi sợ hãi lớn dường như đang dâng lên từ trong tôi, và dạ dày tôi quặn lên vì sợ hãi. Nhưng vị lạt ma đã nắm lấy khuỷu tay tôi, trấn an: “Không sao đâu, Lobsang; không có gì để con phải sợ hãi. Đi với ta”. Ông ấy dẫn đường với bàn tay đặt trên khuỷu tay phải của tôi. Chúng tôi cẩn thận đi vòng quanh các Lạt ma vẫn đang ngồi thành vòng tròn. Tôi nhìn, và nhìn vào tâm vòng tròn. Nhưng cơ thể tôi không ở đó, không có gì ở đó. Cẩn thận, tôi cảm nhận chính mình, và tôi cảm thấy đặc chắc. Tôi lén lút đưa tay ra và chạm vào vị lạt ma bên cạnh tôi, và ông ấy cũng rắn chắc. Ông nhìn thấy điệu bộ của tôi và cười to. “Lobsang! Lobsang! Bây giờ con đang ở trong một trạng thái hoàn toàn khác với cơ thể của con. Chỉ những người có khả năng huyền bí lớn nhất, khả năng bẩm sinh, mới có thể làm được điều như vậy. Nhưng hãy đi với ta”.

Chúng tôi đi đến bên hông ngôi đền, và bức tường mỗi lúc một gần hơn. Tôi rút khỏi tay ông và cố gắng tránh sang một bên, kêu lên: “Không được. Chúng ta sẽ làm mình bị thương nếu không dừng lại. Bức tường này kiên cố!” Lạt ma nắm chặt lấy tôi và ra lệnh, “Đi nào! Khi con có nhiều kinh nghiệm hơn, con sẽ khám phá ra điều này đơn giản như thế nào!”. Ông di chuyển ra sau và đặt hai tay vào giữa hai bả vai tôi. Bức tường hiện ra lờ mờ phía trước, một bức tường kiên cố bằng đá xám. Ông liền đẩy, và cảm giác đáng chú ý nhất trong đời tôi thực sự đã tới khi tôi bước vào đá của bức tường. Dường như toàn thân tôi ngứa ran, dường như hàng triệu – hàng tỷ – bong bóng đang dội vào người tôi. Nó không cản trở tôi, mà chỉ làm tôi nhột, chỉ làm tôi dựng tóc gáy, chỉ làm tôi ngứa ngáy dễ chịu. Tôi dường như đang di chuyển mà không gặp bất kỳ khó khăn nào. Và khi nhìn, tôi có cảm giác rằng mình đang di chuyển trong một cơn bão bụi. Nhưng bụi không làm tôi đau, nó không làm phiền mắt tôi chút nào, và tôi đưa tay ra cố nắm lấy một ít bụi. Nhưng nó xuyên qua tôi hay tôi xuyên qua nó, tôi không biết cái nào đúng. Vị lạt ma phía sau tôi cười khúc khích và đẩy mạnh hơn một chút. Tôi lao thẳng qua bức tường và đi vào hành lang phía bên kia. Một ông già đang đi xuống, mỗi tay cầm một chiếc đèn bơ, và mang một thứ gì đó kẹp giữa khuỷu tay trái và người ông. Tôi cố gắng tránh chạm vào ông, nhưng đã quá muộn. Ngay lập tức tôi định xin lỗi vì sự vụng về của mình, nhưng ông già vẫn tiếp tục; ông ấy đi xuyên qua tôi, hoặc tôi đã đi xuyên qua ông ấy, mà không ai trong chúng tôi nhận thức được sự tiếp xúc; cũng không có chút ấn tượng nào rằng chúng tôi vừa đi xuyên qua một con người khác.

Với sự hướng dẫn của vị lạt ma, chúng tôi di chuyển trong tòa nhà, không bao giờ xâm phạm vào sự riêng tư của những người khác khi họ ở một mình trong phòng họ. Thay vào đó, chúng tôi ghé thăm các phòng kho và, một nhận xét hay cử chỉ khá cay độc của vị lạt ma, người biết rất rõ về tôi, chúng tôi đã đến thăm nhà bếp!

Vị tu sĩ đầu bếp già đang ngồi tựa lưng vào một thùng đựng lúa mạch lớn bằng da. Ông đang tự gãi và xỉa răng bằng một mẩu thân cây nào đó; thỉnh thoảng ông ta quay lại và khạc nhổ vào góc nhà, rồi lại quay lại với việc gãi và xỉa răng. Cuối cùng, khi chúng tôi đứng nhìn ông, ông quay lại, thở dài thườn thượt và nói: “Ài! À! Lại đến lúc chuẩn bị thức ăn rồi. Ôi! Cuộc sống thật là; tsampa, tsampa, và còn nhiều tsampa nữa, và tất cả những người đang đói sẽ được no bụng!”

Chúng tôi tiếp tục đi xuyên qua tòa nhà. Đôi chân của tôi không làm phiền tôi chút nào. Trên thực tế, thành thật mà nói, tôi thậm chí không nghĩ về đôi chân của mình, vì không có lý do gì mà tôi phải làm thế. Chúng không làm phiền tôi. Chúng tôi đã cẩn thận, rất cẩn thận, không xâm phạm quyền riêng tư của người khác. Chúng tôi rẽ tại các hành lang hết mức có thể để không đi vào bất kỳ không gian sinh hoạt cá nhân nào. Chúng tôi đi sâu vào bên trong nhà kho. Bên ngoài có người bạn cũ của tôi, mèo Puss Puss đáng kính, đang nằm duỗi thẳng người, hơi co giật. Râu của chú mèo run rẩy còn đôi tai của chú nằm trên đầu. Chúng tôi đang tiếp cận không tiếng động, chúng tôi nghĩ thế. Nhưng đột nhiên nó tỉnh dậy, hoàn toàn cảnh giác. Và bật dậy với đôi chân dựng đứng, rồi nhe nanh. Nhưng sau đó, mắt nó lác đi khi nó nhìn vào cõi trung giới (điều này tất cả những con mèo đều có thể làm được), và chú mèo bắt đầu kêu rừ rừ khi nhận ra tôi. Tôi cố gắng vỗ về nó, nhưng tất nhiên là tay tôi xuyên thẳng vào người nó, một trải nghiệm đáng chú ý nhất, vì tôi thường vỗ về chú mèo đáng kính và chưa bao giờ tay tôi lọt vào trong. Chú mèo có vẻ thích thú khi tôi đang đau khổ, nhưng nó chỉ hẩy mông vào tôi, lần này khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Rồi nó gạt bỏ toàn bộ sự việc ra khỏi tâm trí, nằm xuống và ngủ tiếp.

Chúng tôi lang thang một lúc lâu qua những bức tường kiên cố, leo lên qua những tầng lầu, và rồi cuối cùng vị lạt ma nói: “Xuống lần nữa, chúng ta hãy đi xuống, vì lần này chúng ta đã đi đủ xa rồi”. Ông nắm lấy cánh tay tôi, và chúng tôi chìm xuống một tầng, xuất hiện từ trần nhà bên dưới, và qua một tầng khác, cho đến khi chúng tôi đến hành lang chỗ ngôi đền. Một lần nữa chúng tôi đến gần bức tường, nhưng lần này tôi không do dự, tôi bước qua nó, thích thú với cảm giác kỳ lạ khi tất cả những bong bóng đó ập đến, tất cả những tiếng nhột nhột dễ chịu đó. Bên trong, các lạt ma vẫn đứng trong vòng tròn của họ, và vị lạt ma của tôi, người đang nắm lấy tay tôi, nói rằng tôi nên nằm xuống chỗ vị trí ban đầu. Tôi làm theo, và ngay lập tức giấc ngủ đến với tôi.

Chiếc áo Cà sa 9

Lobsang trở về và bàng hoàng sau chuyến du hành bằng thể vía đầu tiên của mình. Các lạt ma giải thích tại sao cậu lại không thấy được thân xác mình đang nằm dưới đất mà chỉ thấy người khác. Cậu tiếp tục ngẫm nghĩ…

Chương 9

Người dịch: Dũng.TTQ

Tôi đứng trên mái nhà kho, cao hơn so với mặt đất xung quanh. Trước mặt tôi trải dài toàn bộ Thung lũng Lhasa, xanh tươi và xinh đẹp, với những ngôi nhà sặc sỡ và màu xanh lam của Cầu Ngọc lam. Xa hơn, mái vàng của Thánh đường Lhasa sáng lấp lánh, đứng sừng sững như đã ở đó hàng thế kỷ vững vàng trước bao giông bão. Đằng sau tôi, mặc dù không quay đầu lại tôi vẫn biết, đó là sông Hạnh phúc; xa bên kia sông là dãy núi cao chót vót với những con đèo đang vươn lên. Cao hơn nữa, rồi đi xuống qua những hẻm núi lớn, người ta có thể quay đầu lại và nhìn thấy Lhasa cuối cùng. Sau đó, tiếp tục đi về phía Ấn Độ, sẽ thấy một phần của Nepal, một phần của Sikkim và một phần của Ấn Độ trải dài trước mặt. Đó là chuyện bình thường đối với tôi vì tôi đã biết tất cả những điều ấy. Toàn bộ sự chú ý của tôi bây giờ là dồn vào Thành phố Lhasa.

Bên dưới tôi về phía bên phải, hay đúng hơn, gần như ngay bên dưới tôi, là Cổng Tây, lối vào Thành phố, vẫn đông đúc như mọi khi với những người hành khất đang xin bố thí, những người hành hương mong được sự ban phước từ Đấng Thánh thần, và những người buôn bán. Khi tôi đứng đó, che mắt khỏi ánh sáng gay gắt để có thể nhìn rõ hơn, thì những giọng nói bay đến chỗ tôi: “Xin hãy bố thí! Bố thí vì tình yêu của các Thánh thần! Xin hãy bố thí, vì ông bà có thể sẽ được trợ giúp khi gặp khó khăn!”. Rồi từ một hướng khác: “Ồ! Đây là một món hời thực sự, chỉ mười ru pi, với mười ru pi Ấn Độ ông bà sẽ có món hời quý giá này; ông bà sẽ không bao giờ gặp lại cơ hội thế này đâu”. Hoặc lời rao khác: “tôi cho ông biết điều gì, ông là một khách hàng tốt bụng; giá 9 rupi nhé. Bây giờ ông đưa tôi chín rupi, tôi sẽ chuyển cái này cho anh và chúng ta xong việc, nhé bạn tốt!”

Từ Đường Vành đai ngay bên dưới, những người hành hương đang đi dọc theo, một số người xoài người trên mặt đất, đứng lên và lại xoài người xuống, như thể hình thức di chuyển đặc biệt đó sẽ mang lại cho họ một sự cứu rỗi nào đó. Nhưng những người khác thì bước thẳng đứng, nhìn chằm chằm vào những hình chạm khắc trên đá. Những hình chạm khắc trên đá đầy màu sắc, vốn là một trong những nét đẹp của ngọn núi này. Khi họ xuất hiện trong tầm mắt, tôi có thể nghe thấy họ lẩm bẩm, “Ồ, có ai đó trên mái nhà đang nhìn chằm chằm ra ngoài. Anh có nghĩ đó là một lạt ma không?” Ý nghĩ gần như khiến tôi bật cười. Tôi, một cậu bé, đứng trên cao với chiếc áo choàng rách rưới của mình đang tung bay theo gió. Tôi, là một lạt ma ư? Chưa! Chưa đạt! nhưng tôi sẽ đạt được.

Những người hành hương không ngừng niệm “Om! Mani padme hum!” Những người buôn bán cố gắng bán cho họ các loại bùa chú, bánh xe cầu nguyện, bùa hộ mệnh và lá số tử vi. Hầu hết các lá số tử vi, bùa chú và bùa hộ mệnh đều được sản xuất ở Ấn Độ và được nhập khẩu, nhưng những người hành hương sẽ không biết điều đó. Họ cũng sẽ không biết rằng không có thứ nào trong số này được ban phước theo cách đã hứa. Liệu điều này không xảy ra ở các quốc gia khác chăng? các tôn giáo khác chăng? Liệu thương nhân có như nhau ở khắp mọi nơi hay không nhỉ?

Tôi nhìn đăm đăm từ vị trí cao ngất ngưởng của mình, nhìn đăm đăm về phía Lhasa, nhìn đăm đăm ra ngoài xa, cố gắng xuyên qua làn khói nhẹ hình thành từ những ngọn lửa phân bò yak được thắp lên để sưởi ấm trong những ngôi nhà, vì một chút khói đang bay lên không trung. Thời tiết chắc chắn đang xấu đi. Tôi nhìn lên những đám mây đầy tuyết đang đua nhau trên đầu, và tôi rùng mình. Đôi khi, trời rất nóng, có lẽ là 40 độ F ở vào thời điểm này trong ngày. Nhưng sau đó vào ban đêm, nhiệt độ sẽ giảm xuống dưới mức có thể đóng băng. Nhưng ngay cả thời tiết cũng không khiến tôi quan tâm nhiều vào thời điểm đặc biệt này.

Tôi thả lỏng người, cố gắng dồn một chút trọng lượng lên khuỷu tay đang tì lên bức tường trước mặt, và tôi nhìn đăm đăm cho đến khi mắt tôi đau nhức; và cho đến khi tôi tưởng tượng rằng mình đã nhìn thấy điều mà mình mong muốn. Có lúc tôi bắt đầu phấn khích tột độ; một lạt ma trong chiếc áo cà sa màu vàng nghệ lấp lánh hiện ra trước mắt. Tôi bắt đầu phấn khích đến nỗi đôi chân yếu ớt xảo quyệt phản bội lại tôi, và tôi ngã ngửa ra sau vì bị gió thổi bay, khiến tôi thở hổn hển trong vài giây trước khi tôi có thể lồm cồm đứng dậy và lại nhìn về phía Lhasa. Nhưng không, người mặc chiếc áo cà sa màu vàng nghệ đó không phải là vị lạt ma mà tôi tìm kiếm. Tôi nhìn thấy ông ấy cưỡi ngựa cùng với những người hầu cận của mình. Nhìn ông ấy đi vào Đường vành đai đó, thấy những người hành hương nhường đường cho ông và cúi đầu chào khi ông ấy đi qua. Sau đó khoảng nửa giờ, ông ấy đi đến con đường phía trước tôi. Khi đó, ông nhìn lên và thấy tôi, rồi ra dấu hiệu bằng tay mà tôi hiểu chính xác có nghĩa là Thầy hướng dẫn của tôi sẽ sớm đến thôi.

Thật là một tấm lòng tốt, và là một lòng tốt mà tôi vô cùng cảm kích; vì các lạt ma cấp cao không có thói quen quan tâm nhiều đến các cậu bé. Nhưng tôi có các lý do chính đáng để biết rằng có nhiều lạt ma, một số sống xa cách, hoàn toàn khắc khổ, rút lui khỏi những cảm xúc của cuộc sống, trong khi những người khác thì vui vẻ, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác bất kể cấp bậc, tuổi tác, địa vị trong cuộc sống. Và nói rằng ai tốt hơn? Người khắc khổ hay người từ bi? Lựa chọn của tôi là người có lòng trắc ẩn, người có thể hiểu được những đau đớn và nỗi khổ của các cậu bé.

Từ một cửa sổ cao hơn, một cửa sổ mà tôi không được phép lên tới vì tôi chỉ là một tu sĩ cấp thấp, một cái đầu nhô ra và nhìn xuống. Khuôn mặt đó có ria mép. Tôi cúi đầu cung kính, và khi tôi nhìn lại thì khuôn mặt đã biến mất. Tôi đứng trầm ngâm một lúc, hy vọng rằng mình đã không gây khó chịu khi trèo lên mái nhà này. Và theo những gì tôi biết, tôi đã không vi phạm bất kỳ nội quy nào. Lần này tôi đang cố gắng hết sức cư xử mà không làm bất cứ điều gì có thể khiến tôi bị trì hoãn việc gặp Thầy hướng dẫn của tôi, khi Người trở lại.

Ở nơi cao hơn Chakpori một chút, tôi có thể thấy các nhà sư đang làm công việc của họ. Dường như họ đang đi diễu hành quanh các bức tường, và tôi nghĩ rằng chắc chắn họ đang cảm ơn vì một lô thảo mộc khác từ vùng cao nguyên nơi họ trồng, đã được đưa đến. Tôi biết một nhóm các nhà sư vừa mới tới sau đợt thu hoạch thảo mộc hàng năm tại vùng cao nguyên; và tôi hy vọng rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ là thành viên của những nhóm như vậy.

Từ xa xa có một vệt khói bốc lên. Tôi có thể thấy một nhóm đàn ông nhỏ đang tụ tập. Có lẽ họ đang pha trà để làm tsampa. Rõ ràng đó là những thương nhân vì trong số họ không có ai mặc màu áo cà sa. Chỉ có màu xám của những người buôn bán, và tất cả những người này đều đội mũ lông thú.

Gió lạnh lại nổi lên. Phía dưới những thương nhân đang thu dọn hàng hóa của họ, và chạy vội vã tìm nơi trú ẩn. Những người hành hương đang lom khom trên sườn núi khuất gió, và những người ăn xin tỏ ra nhanh nhẹn đáng kể. Thậm chí một số người còn quên cả bệnh tật giả vờ của mình khi vội vã chạy trốn cơn bão cát, hay đúng hơn là cơn bão bụi đang đến gần.

Thung lũng Lhasa thường xuyên bị quét sạch bởi những cơn gió mạnh thổi từ trên núi xuống, cuốn bay mọi thứ trước mặt chúng. Chỉ có những tảng đá lớn hơn ở lại. Còn thì bụi, sạn, hay cát, tất cả đều bị cuốn đi. Nhưng với mỗi cơn gió lớn thì cát và bụi mới ập đến chỗ chúng tôi. Cát được sinh ra bởi những tảng đá lớn đã rung chuyển từ trên núi, và sau đó có lẽ đã va chạm với một số tảng đá khác và vỡ vụn, tạo thành bột đá nghiền, bị gió cuốn xuống chúng tôi.

Cơn gió mạnh đột ngột thổi vào lưng tôi, ép chặt chiếc áo choàng của tôi vào bức tường đá trước mặt, chặt đến nỗi tôi không thể cử động được. Tôi bấu víu vào tường, cố gắng tìm chỗ bám, cố gắng hạ thấp xuống thành một nhúm trên mái nhà để không tạo điều kiện cho sức gió nhấc tôi lên. Tôi đau đớn khuỵu đầu gối xuống. Với sự thận trọng vô hạn, tôi ép người xuống sao cho chỉ như một quả bóng và bảo vệ mặt và đầu khỏi cơn gió mang theo đầy đá.

Trong vài phút, gió hú và rít lên, dường như đe dọa thổi bay cả ngọn núi. Gió hú to hơn cả tiếng kèn của chúng tôi từng thổi, và rồi ngay lập tức, một cách kỳ lạ, một cách khác thường, xuất hiện sự im lặng bao trùm, một sự tĩnh lặng chết chóc. Trong sự im lặng đó, đột ngột tôi nghe thấy một tiếng cười. Tiếng cười của một cô gái từ đâu đó trong bụi cây bên dưới. “Ôi!” cô ấy nói. “Không phải ở nơi Thánh địa này, như vậy là báng bổ”. Sau đó là một tiếng cười khúc khích, một chàng trai và một cô gái bước vào tầm mắt, tay trong tay họ băng qua Cổng Tây. Tôi lười nhác nhìn họ trong một vài khoảnh khắc, rồi họ biến mất khỏi tầm mắt tôi và biến mất khỏi cuộc đời tôi.

Tôi đứng đó, nhìn đăm đăm và đăm đăm lần nữa, qua ngọn cây dọc theo hướng Lhasa. Cơn bão đã rời bỏ chúng tôi và bây giờ nó đang ở Lhasa. Khung cảnh bị che khuất, tất cả những gì tôi thấy là một đám mây lớn giống như một tấm chăn màu xám chắn tầm nhìn của tôi. Đám mây không có gì đặc biệt, nhưng nó di chuyển rất nhanh. Nó cho ta ấn tượng về hai vị Thần, mỗi vị thần nắm lấy góc cuối của tấm chăn màu xám và chạy cùng nó. Khi tôi quan sát, càng lúc càng có nhiều tòa nhà hiện ra. Rồi ni viện ở phía bên kia của Lhasa cũng hiện ra, và đám mây tiếp tục rút nhanh xuống thung lũng, ngày càng trở nên nhỏ hơn. Khi lực gió trở nên yếu đi, các hạt bụi và sạn nặng hơn rơi xuống.

Nhưng tôi đang quan sát về hướng Lhasa, chứ không phải một đám mây bụi ngớ ngẩn mà tôi có thể nhìn thấy bất cứ lúc nào. Tôi dụi mắt và nhìn chằm chằm lần nữa. Tôi cố ép mình nhìn nhiều hơn những gì thực sự có ở đó. Nhưng cuối cùng, tôi thấy một nhóm nhỏ đàn ông vừa xuất hiện bên ngoài một số tòa nhà. Một số người trong số họ mặc áo cà sa màu vàng nghệ. Họ ở quá xa để tôi có thể nhìn thấy từng người, nhưng tôi biết! Tôi biết!

Tôi nhìn say mê, và tim tôi đập nhanh hơn bình thường. Một nhóm đàn ông cưỡi ngựa một cách nghiêm túc, không vội vã. Một đám rước có trật tự. Dần dần họ đến gần lối vào Cầu Ngọc Lam, rồi bị che khuất khỏi tầm nhìn của tôi bởi cấu trúc khép kín tuyệt đẹp đó, cho đến khi họ xuất hiện trở lại ở phía đầu cầu gần tôi.

Tôi nhìn đăm đăm, cố gắng tưởng tượng ai là người nào. Dần dần, với sự chậm chạp khó nhọc, họ ngày càng đến gần hơn. Trái tim tôi nhảy lên khi cuối cùng tôi có thể nhận ra chiếc áo choàng màu vàng nghệ mà tôi quan tâm. Tôi cố gắng nhảy nhót vui sướng trên mái tu viện, nhưng đôi chân không cho phép. Vì vậy, tôi lại tì tay vào tường trong một nỗ lực không thành công để kiểm soát sự run rẩy của chân tay. Lần này thì tôi run nhiều hơn, do sự phấn khích hơn là vì yếu ớt.

Đoàn người ngày càng tiến gần hơn, cuối cùng họ bị che khuất bởi những tòa nhà lớn tại Làng Shö bên dưới. Tôi có thể nghe thấy tiếng vó ngựa lộp cộp. Tôi có thể nghe thấy tiếng sột soạt, và tiếng lạo xạo của dây đai; và thỉnh thoảng có tiếng cót két của một chiếc túi da, có lẽ bị ép giữa kị sỹ và con ngựa.

Tôi kiễng chân và cố làm cho mình cao hơn để có thể nhìn rõ hơn. Khi nhìn qua bờ tường, tôi có thể nhận ra những cái đầu đang chậm rãi đi lên con đường bậc thang về phía lối vào chính. Trong phút chốc, một người mặc áo choàng màu nghệ nhìn lên, mỉm cười và vẫy tay. Tôi quá mất tinh thần để vẫy lại. Tôi đứng đó và nhìn chằm chằm, run lên vì nhẹ nhõm và vì Người sẽ sớm lại ở bên tôi.

Một lạt ma khác được trao đổi đôi lời, và ông ấy cũng nhìn lên rồi mỉm cười. Lần này thì tôi có thể gắng gượng đáp lại bằng một nụ cười khá run rẩy. Bởi vì tôi đang quá xúc động, tôi cảm thấy cảm xúc dâng trào bên trong. Và tôi cực kỳ sợ hãi rằng mình sẽ gục ngã, vì điều này chứng minh rằng tôi không phải là một người đàn ông.

Đoàn kỵ binh nhỏ ngày càng lên cao hơn nữa, đi vào hướng cổng chính của Potala, rất phù hợp cho một đội trông oai phong như vậy. Bây giờ thì, tôi đã biết rõ, sẽ phải chậm một chút thôi bởi vì thầy hướng dẫn của tôi trước tiên sẽ phải đến gặp Đấng Tối cao để báo cáo. Sau thời gian đó, Ngài sẽ đến phòng riêng của mình ở khu vực cao hơn của Potala. Rồi sau một khoảng thời gian thích hợp, người sẽ cử một cậu bé đi gọi tôi.

Tôi trườn xuống khỏi vị trí, phủi bụi trên tay và đầu gối, cố gắng chỉnh trang cho chiếc áo choàng của mình trông khá tươm tất. Sau đó, tôi đi lên căn phòng nhỏ phía trên mái, bước vào, rất cẩn thận và từ từ leo thang xuống tầng dưới. Tôi phải đảm bảo mình luôn sẵn sàng bất cứ khi nào có người đưa tin đến tìm tôi, và trước hết tôi muốn đảm bảo rằng mình luôn sạch sẽ gọn gàng nhất có thể.

Những chiếc thang chỗ chúng tôi là vật dụng khá nguy hiểm đối với bất kỳ ai có vấn đề ở chân. Chúng bao gồm một cây cột chắc, được làm nhẵn và có các rãnh khắc ở mỗi bên để người ta đặt một chân, hay đúng hơn là một bàn chân, vào chỗ rãnh bên trái; sau đó, người ta đặt chân phải lên cái rãnh cao hơn ở phía phải. Một người trèo lên trên theo cách đó, với cây cột ở giữa hai đầu gối. Nếu anh ta không cẩn thận, hoặc cây cột bị lỏng lẻo, người đó sẽ bị trượt sang bên, điều này thường khiến các cậu bé vô cùng thích thú. Một mối đe dọa mà người ta cần phải cảnh giác, là các thang cột thường trơn trượt vì bơ. Khi một người leo lên cột với chiếc đèn bơ trên tay, thường thì bơ tan chảy sẽ nhỏ giọt xuống gây thêm khó khăn cho người ta. Nhưng đây không phải là lúc để nghĩ về thang hay đèn bơ. Tôi bước xuống sàn, cẩn thận phủi bụi lần nữa và cạo vài mẩu bơ đông cứng. Sau đó, tôi đi vào khu vực dành cho nam giới của tòa nhà.

Trong ký túc xá, tôi sốt ruột bước đến cửa sổ và nhìn ra ngoài, đá gót chân vào tường như một dấu hiệu của sự thiếu kiên nhẫn. Tôi nhìn ra ngoài, lần này hoàn toàn vì buồn chán, vì không có gì ở bên ngoài mà tôi muốn nhìn cả. Người mà tôi muốn nhìn thấy đã ở bên trong tòa nhà!

Ở Tây Tạng, chúng tôi không sử dụng gương, một cách không chính thức. Nghĩa là, bởi vì gương được coi là một thứ phù phiếm, nên nếu bất kỳ người nào bị bắt gặp đang soi gương thì người ta cho rằng người đó đang nghĩ đến những điều xác thịt, hơn là những thứ thuộc về tinh thần. Việc chúng tôi không có gương soi đã giúp ích rất nhiều trong việc giữ thái độ này! Tuy nhiên, trong dịp đặc biệt này, tôi khẩn thiết muốn xem mình trông như thế nào. Và vì vậy, tôi lén lút đi vào một trong những ngôi đền, nơi có một cái đĩa đồng rất bóng. Nó sáng bóng đến nỗi sau khi tôi lấy mép áo choàng của mình chà lên nó vài lần, tôi có thể nhìn vào bề mặt nó, và biết được mình trông như thế nào. Sau khi nhìn lâu và chăm chú, và cảm thấy vô cùng chán nản với những gì mình nhìn thấy. Tôi đặt chiếc đĩa lại đó và đi tìm nhà sư cắt tóc, vì tôi trông giống như một đứa “Đầu Đen”.

Ở Tây Tạng, “Đầu Đen” là những người không ở trong các Dòng Thánh. Các nhà sư và tất cả những người theo các dòng tu, thầy cúng, hoặc tu sĩ đều cạo đầu. Vì vậy họ thường được gọi là “Đầu đỏ”, bởi vì đó là điều chúng tôi gặp phải khi mặt trời trở nên tồi tệ nhất. Mặt khác, những giáo dân có mái tóc đen trên đầu, vì vậy họ được gọi là “Đầu đen”. Cũng nên nói thêm ở đây rằng, chúng tôi đề cập đến “Áo choàng màu Vàng nghệ” khi chúng tôi muốn nói đến các lạt ma cao cấp; chúng tôi không bao giờ nói “người mặc áo choàng màu vàng nghệ”, mà chỉ nói “Áo choàng Màu vàng nghệ”. Theo cách tương tự, chúng tôi nói là “Áo choàng Đỏ” hoặc “Áo choàng Xám”, bởi vì đối với chúng tôi chiếc áo choàng là thứ, thể hiện trạng thái của người bên trong nó. Logic Tây Tạng cũng cho chúng tôi thấy rõ ràng rằng phải có một người ở bên trong chiếc áo choàng, nếu không chiếc áo choàng sẽ không thể di chuyển được!

Tôi đi sâu hơn và sâu nữa, dọc theo các hành lang dốc của Potala. Cuối cùng tôi đến được căn phòng khá lớn, nơi nhà sư cắt tóc làm công việc của mình. Ông ấy được gọi là nhà sư theo phép lịch sự, vì đối với tôi dường như ông không bao giờ rời khỏi căn phòng đặc biệt của mình, và chắc chắn là không bao giờ tham dự các buổi lễ. Tôi tản bộ dọc theo hành lang, và bước vào cửa. Như thường lệ, nơi này đầy rẫy những nhà sư ăn bám, những người lười nhác đi lảng vảng, nhà sư cắt tóc, nhà sư phụ bếp. Thực tế là, bất cứ nơi nào họ có thể trốn việc và để lãng phí thời gian của chính họ cũng như người khác. Nhưng hôm nay có một bầu không khí khá phấn khích ở nơi này, và tôi tìm hiểu lý do.

Trên một băng ghế thấp có một đống tạp chí rách nát và tả tơi. Rõ ràng là một trong các nhà sư đã phục vụ cho một nhóm thương nhân, và những thương nhân này với lòng tốt đã tặng cho ông ta cả đống tạp chí và giấy tờ, mà họ đã mang từ Ấn Độ đến, với nhiều mục đích khác nhau. Bấy giờ có khá nhiều tu sĩ trong phòng của tu sĩ cắt tóc, và họ đang đợi một tu sĩ khác đã sống một thời gian ở Ấn Độ, người được coi là có thể hiểu những gì nói trong các tạp chí.

Hai nhà sư đang cười nói huyên thuyên về một bức ảnh nào đó trên tạp chí. Người này cười nói với người kia: “Chúng ta phải hỏi Lobsang về tất cả những điều này, cậu ấy chắc là một chuyên gia về những thứ đó. Lại đây nào, Lobsang!” Tôi đi đến chỗ họ đang ngồi trên sàn để xem ảnh. Tôi lấy quyển tạp chí từ tay họ, sau đó một người nói: “Nhưng mà, nhìn kìa, cậu để tạp chí lộn ngược rồi; cậu thậm chí còn không biết cách cầm”. Thật là không may, trong sự xấu hổ, tôi thấy anh ta đã đúng. Tôi ngồi xuống giữa họ và nhìn vào bức tranh đáng chú ý nhất. Nó có màu hơi nâu, nâu đỏ. Tôi nghĩ nội dung chính xác sẽ là, nó mô tả một người phụ nữ có vẻ ngoài kỳ lạ. Cô ấy đang ngồi trên một chiếc bàn cao trước một chiếc bàn lớn hơn, và trên một chiếc khung ở cái bàn lớn hơn, có một bức ảnh, hoặc hình ảnh phản chiếu của người phụ nữ.

Chiếc váy của cô ấy thực sự khiến tôi tò mò vì nó dường như dài hơn chiếc áo choàng của một nhà sư. Cô ấy có một vòng eo nhỏ đáng kể, dường như được thắt chặt để làm cho nó thậm chí còn nhỏ hơn, nhưng cánh tay của cô ấy lại được độn rất nhiều. Và khi tôi nhìn vào ngực cô ta, tôi thấy mình đỏ mặt xấu hổ vì chiếc váy của cô ta quá thấp. Tôi nên nói là thấp một cách nguy hiểm. Và tôi thấy xấu hổ rằng tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu cô ấy cúi người về phía trước. Nhưng trong bức ảnh này, cô ấy đang giữ thẳng lưng một cách cứng nhắc.

Khi chúng tôi đang xem bức ảnh, một nhà sư khác bước vào và đứng sau chúng tôi; chúng tôi không chú ý đến anh ta. Một trong những người xung quanh nói, “Cô ta đang làm gì vậy?”. Nhà sư vừa bước vào cúi xuống đọc những gì viết bên dưới, rồi ông ta nói một cách trịnh trọng: “Ồ, cô ấy chỉ trang điểm trên khuôn mặt, cô ấy đang tô son. Và khi nào cô ấy làm xong, cô ấy sẽ dùng chì kẻ lông mày. Đó là một quảng cáo mỹ phẩm”. Tất cả điều này khiến tôi bối rối không thể tin được. Trang điểm khuôn mặt của cô ấy ư? Thoa son môi ư? Vẽ bút chì lông mày sao?

Tôi quay sang nhà sư đọc tiếng Anh phía sau tôi và hỏi: “Nhưng tại sao cô ấy muốn đánh dấu vị trí của miệng mình? Cô ấy không biết sao?”. Anh ấy cười với tôi và nói: “Một số người trong số họ, họ tô son màu đỏ hoặc cam ở quanh môi, điều đó được cho là khiến họ hấp dẫn hơn. Và khi họ đã tô xong, họ sẽ làm mọi thứ với lông mày và có lẽ cả với mí mắt của họ. Và khi họ đã làm xong số việc đó, họ đi và rắc bụi lên mặt, bụi có nhiều màu sắc khác nhau”. Tất cả những điều này dường như rất lạ đối với tôi, và tôi hỏi: “Nhưng tại sao cô ấy không mặc váy che phần trên của cơ thể?”. Mọi người đều cười nhạo tôi, nhưng đều vui vẻ nhìn xem tôi đang làm gì. Nhà sư đọc tiếng Anh cười to nhất và nói, “Nếu cậu nhìn thấy những người phương Tây này trong các bữa tiệc của họ, cậu sẽ thấy rằng họ mặc rất ít trên ngực, nhưng rất nhiều ở dưới thắt lưng!”

Tôi nghiền ngẫm những bức ảnh, cố gắng hiểu chúng nói về cái gì. Tôi không hiểu làm thế nào người phụ nữ có thể di chuyển trong bộ quần áo khó chịu như vậy. Cô ấy dường như không có chân, tấm vải quét xuống mặt đất và kéo lê theo sau cô ta. Nhưng tôi nhanh chóng quên tất cả những điều đó khi tôi nghe vị tu sĩ biết đọc tiếng Anh nói với những người khác về các tạp chí.

 “Hãy nhìn cái này, ngày tháng là năm 1915, đang có một cuộc chiến tranh rất lớn ở phương Tây và nó sẽ bao trùm toàn thế giới. Người ta đánh nhau, giết nhau, và họ đào hố dưới đất rồi ở trong những cái hố đó. Và khi mưa tới, họ suýt chết đuối.”

 “Chiến tranh là về cái gì?” một tu sĩ khác hỏi. “Ồ, đừng bận tâm chiến tranh là về cái gì. Người phương Tây không cần lý do gì để chiến đấu, họ chỉ chiến đấu thôi”. Anh lật qua một vài tạp chí, rồi đến một tạp chí khác. Nó cho thấy một điều đáng chú ý nhất, dường như là một chiếc hộp sắt lớn, và theo hình ảnh đó thì nó đang chạy trên mặt đất, đè lên những người lính đang cố gắng trốn thoát. “Thứ đó,” nhà sư đọc tiếng Anh nói, “là phát minh mới nhất; nó được gọi là xe tăng, và nó có thể là thứ sẽ chiến thắng trong cuộc chiến.”

Chúng tôi nhìn, và suy nghĩ về chiến tranh. Chúng tôi suy nghĩ về tất cả những linh hồn bị thương khi thể xác của họ bị hủy hoại. Tôi nghĩ về việc phải đốt hết bao nhiêu nén nhang để cứu giúp những vong linh lang thang đây.

 “Tôi hiểu là người Anh đang thành lập một tiểu đoàn Gurkhas khác,” nhà sư đọc tiếng Anh nói. “Nhưng họ không bao giờ nghĩ đến việc yêu cầu bất kỳ sự trợ giúp tâm linh nào từ Tây Tạng”. Tôi khá mừng vì họ đã không làm thế, vì tôi không thể thấy bất kỳ ý nghĩa nào trong tất cả sự giết chóc, đổ máu, sự đau khổ. Tôi thấy thật ngu ngốc khi những người đàn ông đã trưởng thành lại tranh cãi và lao vào đánh nhau, chỉ vì một nhóm người không thể đồng ý với một nhóm người khác. Tôi thở dài và lắc đầu trong sự bực tức, khi nghĩ rằng số phận bất hạnh của mình là sau này phải hành trính đến thế giới phương Tây. Tất cả mọi thứ đã được định trước, tương lai của tôi đã được nói cho tôi rất rõ ràng. Nhưng tôi không thích bất kỳ điều gì đã được kể với tôi, nó mang theo quá nhiều đau khổ, quá nhiều khó khăn!

 “Lobsang!” một giọng nói lớn tiếng gọi tôi. Tôi ngước lên, thấy nhà sư thợ hớt tóc ra hiệu cho tôi đến ngồi trên chiếc ghế đẩu ba chân của ông. Tôi làm theo, anh ấy đứng sau lưng tôi và nhặt lấy lưỡi dao lớn dùng để cạo đầu. Tất nhiên, anh ấy không dùng xà phòng hay dùng nước; chỉ dùng lưỡi dao liếc vài nhát trên một phiến đá, rồi dùng tay trái nắm chặt lấy thái dương tôi, anh ấy bắt đầu quá trình cạo tóc khỏi hộp sọ của tôi một cách đầy đau đớn. Không ai trong chúng tôi thích quá trình này, và tất cả đều cho rằng mình sẽ có một cái đầu đầy máu, bị rạch, nứt nẻ. Tuy nhiên, người Tây Tạng không mềm yếu, họ không bỏ chạy la hét khi bị vết đau đầu tiên. Vì vậy, tôi ngồi đó trong khi nhà sư thợ cạo cạo tóc tôi đi. “Ta cho rằng tốt hơn là ta nên cắt cổ cậu luôn, nhỉ?” anh ấy nói. “Ta hiểu rằng thầy hướng dẫn của cậu đã quay về, và cậu thì vội muốn đi, đúng không?” Nói xong, anh ta ấn đầu tôi xuống gần như xuống giữa hai đầu gối, rồi cạo một cách siêng năng vào mái tóc dài nơi chỗ gáy. Suốt thời gian đó anh liên tục thổi vào tôi, thổi tung đám tóc đã cắt. Và mỗi lần như vậy, nếu tôi đoán được đúng lúc!, tôi lại phải nín thở vì hơi thở của anh ấy, chà, không hề dễ chịu. Hình như răng anh ấy đang bị sâu hoặc thứ gì đó. Tuy nhiên, cuối cùng thì anh ấy cũng đã cạo xong và chúng tôi bắt đầu lau máu từ vô số vết xước. Ai đó nói: “Cách nhanh nhất để chặn máu là đặt một tờ giấy lên mỗi vết xước. Thử xem sao.” Vì thế, cuối cùng tôi trông giống như một con bù nhìn với những mẩu giấy nhỏ ba góc, dính vào những mảng máu.

Tôi chẳng có gì hay ho để làm trong một thời gian tiếp theo, vì vậy tôi ở lại trong phòng hà sư cắt tóc và lắng nghe tất cả cuộc trò chuyện. Dường như mọi thứ đang ở trong tình trạng rất tồi tệ ở thế giới phương Tây, dường như thế giới này sắp bùng cháy. Dường như có rắc rối ở Nga, rắc rối ở Anh, người Ai-len đang náo loạn. Chỉ có chúng tôi ở Tây Tạng là yên bình. Tôi im lặng khi nhớ lại những lời tiên tri đã được đưa ra cho Tây Tạng từ nhiều thế kỷ trước, và tôi biết rằng trong thời đại của chúng tôi, thực tế là trong cuộc đời của tôi; thì chúng tôi, người Tây Tạng, sẽ gặp những rắc rối của riêng mình. Tôi cũng biết rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma yêu quý của chúng tôi sẽ là Đức Đạt Lai Lạt Ma thực sự cuối cùng; và mặc dù sẽ có thêm một vị nữa nhưng ngài sẽ không có cùng ý nghĩa tâm linh.

Tôi lười biếng lật một trang và trông thấy một bức ảnh lạ thường nhất. Nó dường như bao gồm rất nhiều khối hộp với các mặt hông được cắt bỏ từng mảnh; và có những khuôn mặt của mọi người đang chăm chú nhìn ra ngoài từ các mảnh trên mặt hông đó. Tất cả các hộp đều được ghép lại với nhau, và dường như chúng bị kéo bởi một con quái vật nào đó đang nhả khói. Có những thứ hình tròn bên dưới những chiếc hộp, và dường như có hai đường kẻ giữa chúng. Tôi hoàn toàn không thể hiểu được ý nghĩa của nó là gì. Lúc đó tôi không biết rằng chúng là bánh xe, và thứ tôi đang thấy là một đoàn tàu hỏa; bởi vì ở Tây Tạng, bánh xe duy nhất là Bánh xe Cầu nguyện. Tôi quay sang nhà sư đọc tiếng Anh và giật giật áo choàng của ông. Cuối cùng, ông ấy quay sang tôi, rồi tôi nhờ ông ấy nói cho tôi biết nó nói gì. Ông ấy dịch rằng đó là chuyến tàu quân sự của Anh, đưa binh lính đến chiến đấu ở mặt trận Flanders.

Một bức tranh khác đã mê hoặc tôi và khiến tôi xúc động không thể giải thích được; nó là một cỗ máy trông có vẻ như là một con diều nhưng không có dây giữ nó từ mặt đất. Con diều này dường như là một cái khung được bọc vải. Ở phía trước nó dường như có một vật gì đó, theo biểu tượng của bức tranh, hẳn là đang quay. Và tôi thấy có hai người trong con diều này, một người phía trước và một người ngồi sát phía sau. Nhà sư đọc tiếng Anh khá thân thiện nói với tôi rằng, đó là một chiếc máy bay, một thứ mà tôi chưa bao giờ nghe nói trước đây. Tôi quyết tâm rằng nếu mình bị trục xuất khỏi tu viện, hoặc Dòng tu, tôi sẽ không làm người chèo thuyền nữa, mà thay vào đó tôi sẽ là một trong những người thả những con diều kỳ lạ mà phương Tây đã có. Sau đó khi lật những trang tiếp, tôi thấy một thứ khác. Một thứ khiến tôi kinh hãi không nói nên lời trong giây lát, trông nó có vẻ kỳ công, thứ này dường như là một cái ống dài được bọc vải hoặc một loại vật liệu nào đó. Nó được trình bày như thể đang bay phía trên và thả những thứ lớn màu đen xuống một thành phố. Những hình ảnh khác cho thấy thứ màu đen hạ xuống, thấy những chớp sáng và các tòa nhà bị hư đổ nát bay lên không trung. Nhà sư đó nói với tôi đó là một thứ gọi là khinh khí cầu, được sử dụng để đánh bom nước Anh. Và quả bom là một hộp kim loại chứa đầy chất nổ mạnh, có thể thổi bay mọi thứ trên đường đi của nó khi nó rơi xuống. Đối với tôi, dường như những tạp chí này không có nội dung gì về hòa bình cả. Thay vào đó, chúng chỉ đề cập đến chiến tranh. Tôi nghĩ mình đã xem đủ những bức ảnh chỉ làm bùng lên niềm đam mê giận dữ của con người. Thế là tôi đặt tạp chí xuống, cảm ơn nhà sư đọc tiếng Anh và nhà sư thợ cắt tóc, rồi lại lên đường đi lên ký túc xá nơi tôi biết tôi sẽ sớm mong chờ người đưa tin xuất hiện.

Ngày kéo dài vô tận. Một lần nữa lại đến lúc lấy tsampa. Tôi đi xuống hành lang và dùng bữa với những người khác, nhưng thú thật là ngày hôm đó dài vô tận, vô tận. Tôi cảm thấy hơi thèm ăn, tôi nghĩ mình nên tranh thủ ăn khi vẫn còn thời gian.

Sau khi cọ bát xong, tôi rời phòng ăn. Trở lại ký túc xá và đứng một lúc nhìn ra ngoài cửa sổ, quan sát sự nhộn nhịp bao quanh các tòa nhà của chúng tôi.

Chiếc áo cà sa 5

CHƯƠNG 5

Người dịch: Dũng.TTQ

Chúng tôi cùng nhau lao xuống hành lang về phía văn phòng thầy y tế. Cùng nhau? Không, không hoàn toàn! Vị lạt ma trẻ vội vã chạy, tôi bước theo sau với đôi chân loạng choạng. Bị đi theo vì anh ta nắm chặt vạt áo trước của tôi và đang kéo tôi đi. Tôi lẩm bẩm và càu nhàu với chính mình nhiều nhất có thể vì khó thở. Tôi bị thổi bay khỏi mặt đất và bốc lên mái nhà và bây giờ mọi người xô đẩy xung quanh tôi. Ôi! Tôi nghĩ, bây giờ tôi gần như TIN rằng mình đã bị nổ tung. Ôi! Tôi tự hỏi Đấng Tối cao nghĩ thế nào – hoặc đã biết điều gì nhỉ!

Chúng tôi rẽ chỗ một góc quanh và ùa vào văn phòng. Thầy tu y sỹ đang ăn tsampa. Khi nhìn thấy chúng tôi, ông dừng lại và nhìn lên; miệng ông há hốc khi nhìn thấy tôi lần nữa và tay ông quơ quơ giữa bát và miệng. “Lại là cậu? Cậu? Lần này cậu đã làm gì?” Vị lạt ma trẻ, thở hổn hển vì kích động, lo lắng và hụt hơi, tuôn ra một tràng ngôn từ vụng về – gần như vấp phải lưỡi của mình do tốc độ nói của anh.

 “Đấng Tối cao, ngài ấy muốn gặp Lobsang NGAY BÂY GIỜ. Chúng ta có thể làm gì đây?” Thầy tu y tế thở dài khi đặt bát xuống và chùi ngón tay vào áo choàng. “Ngài sẽ không chỉ NHÌN THẤY cậu ấy mà còn NGỬI THẤY cậu ấy nếu ta để cậu ấy như thế này”, vị lạt ma trẻ kích động lẩm bẩm “Ái chà! Ái chà! Chúng ta có thể làm gì để xoa dịu ngài đây?” Bác sĩ bệnh xá cười khúc khích và rồi nhanh chóng trở nên nghiêm trang khi nghĩ đến Đấng Tối cao. “Ah!” ông nói, “Ta chỉ làm thế để đùa thôi, ta đang thử một loại thuốc mỡ mới và đang có sẵn. Đó cũng là một loại thuốc mỡ có thể phết lên cột và tường để đuổi chó bằng mùi của nó, nhưng nó là “thuốc mỡ trị vết bầm”. Bây giờ, để ta suy nghĩ nào!”

Vị lạt ma trẻ và tôi nhìn nhau thất thần. Thuốc đuổi CHÓ, chà, nó chắc chắn đã khiến TÔI bị đuổi, nhưng phải làm gì bây giờ? Vậy là ông già đã đùa giỡn với tôi, phải không? Chà, tôi nghĩ, bây giờ trò đùa là dành cho NGÀI – làm cách nào để khử mùi hôi trước khi Đức Đạt Lai Lạt Ma biết điều này? Ông già nhảy dựng lên và búng tay thỏa mãn. “Cởi áo choàng ra,” ông ra lệnh. Tôi lại cởi áo choàng ra. Thầy tu y tế đi vào phòng bên, vài phút sau xuất hiện với một cái xô da chứa đầy chất lỏng có mùi thơm. Đẩy tôi vào một cái mương nhỏ trong văn phòng của ông, ông dốc ngược cái xô và đổ thứ đó lên đầu tôi.

Tôi nhảy cẫng và nhảy cẫng, thứ này làm se da, và tôi nghĩ da mình sẽ bị bong cả ra. Nhanh chóng lấy một miếng giẻ, ông ấy lau cơ thể tôi, nó trở lên rất hồng hào, rất thơm, nhưng có mùi thơm ngọt. “Thấy chưa!” ông già thốt lên vẻ hài lòng. “Cậu là một rắc rối lớn đối với ta, có lẽ việc điều trị đau đớn sẽ khiến cậu không đến nữa trừ khi thật cần thiết”. Ông ấy quay sang phòng khác và trở lại với một chiếc áo choàng sạch. “Mặc vào đi”, ông ra lệnh. “Chúng ta không thể để con đến gặp Đấng Tối Cao trong bộ dạng bù nhìn được”. Tôi mặc quần áo, ngứa râm ran khắp người. Chất liệu thô ráp của chiếc áo choàng làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn, nhưng vị lạt ma trẻ tuổi và thầy tu y tế dường như không bận tâm về điều đó! “Nhanh! Nhanh!” lạt ma trẻ nói. “Chúng ta không được lãng phí thời gian”. Anh nắm lấy cánh tay tôi và kéo tôi về phía cửa. Tôi di chuyển một cách miễn cưỡng, để lại những dấu chân ẩm ướt có mùi thơm trên sàn nhà. “Chờ đã!” thầy tu y tế kêu lên. “Cậu ấy phải có dép!” Một cách vội vàng, ông biến mất và sau đó hiện ra với một đôi dép. Tôi xỏ chân vào chúng và thấy chúng đủ lớn cho một người to gấp đôi tôi.

 “Ối!” Tôi hoảng hốt kêu lên. “Chúng quá lớn, con sẽ vấp hoặc đánh rơi chúng. Con muốn dùng dép của con!”. “Ồ! Cậu không phải là một…?” thầy tu y tế cáu kỉnh. “Chỉ là một đống rắc rối, luôn gặp rắc rối. Chờ đấy! Ta phải chỉnh cho anh vừa vặn, nếu không anh sẽ ngã lăn ra trước mặt Đấng Chí Tôn và như thế làm ta xấu hổ”. Ông loay hoay, sờ soạng và dò dẫm, rồi lấy ra một đôi dép vừa ý hơn. “Đi đi!” ông kêu lên. “Đừng quay lại đây trừ khi cậu sắp chết!” Ông quay lại và tiếp tục bữa ăn bị gián đoạn của mình.

Vị lạt ma trẻ thở hổn hển vì lo lắng và kích động. “Làm thế nào để tôi giải thích sự chậm trễ đây?” anh ấy hỏi, như thể tôi có thể cho anh câu trả lời. Chúng tôi vội vã đi dọc theo hành lang và chẳng mấy chốc đã bị một lạt ma trẻ tuổi khác đuổi kịp. “Các cậu đã ở đâu vậy?” anh hỏi với vẻ bực tức. “Đấng Tối cao đang chờ đợi – và Ngài KHÔNG muốn bị chờ đợi!”. Không có thời gian để giải thích nữa.

Chúng tôi vội vã đi dọc các hành lang, leo lên tầng trên, rồi tầng trên nữa – và một tầng nữa. Cuối cùng, chúng tôi đến một ô cửa lớn được canh giữ bởi hai giám thị to cao. Nhận ra hai vị lạt ma trẻ tuổi, họ tránh sang một bên, và chúng tôi bước vào phòng riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đột nhiên vị lạt ma trẻ đầu tiên dừng lại và đẩy tôi vào tường. “Chờ đây!” anh ấy nói. “Tôi phải thấy cậu được gọn gàng đã.” Anh ấy nhìn tôi từ trên xuống dưới, kéo nếp gấp chỗ này, xếp nếp chỗ kia. “Quay lại”, anh ra lệnh, nhìn tôi một cách cẩn thận, hy vọng rằng tôi không lôi thôi hơn một người giúp việc bình thường. Tôi quay người lại, úp mặt vào tường. Anh ấy lại kéo và kéo thẳng áo choàng của tôi. “Cậu là cậu bé bị thương ở chân, à, Đấng Tối cao biết điều đó. Nếu ngài bảo cậu ngồi thì hãy ngồi một cách duyên dáng nhất có thể. Được rồi, quay lại đi.” Tôi quay lại, nhận thấy rằng vị lạt ma trẻ kia đã biến mất. Chúng tôi đứng đó và chờ đợi. Chúng tôi đợi cho đến khi tôi nghĩ rằng đầu gối của mình sẽ khuỵu xuống. Tất cả sự vội vàng đó, và bây giờ thì chúng tôi chờ đợi, tôi nghĩ. TẠI SAO tôi phải đi tu chứ?

Cánh cửa phía trong đã mở và một vị lạt ma lớn tuổi bước ra. Vị lạt ma trẻ cúi chào và rút lui. Vị quan chức cấp cao, vì đó là vị lạt ma lớn tuổi, nhìn tôi – quan sát tôi từ trên xuống dưới và hỏi: “Con có thể đi lại mà không cần trợ giúp không?” “Thưa Thánh chủ!” Tôi trả lời. “Con có thể đi lại khó khăn”. “Vậy thì đi”, ông nói, quay người và từ từ dẫn đường tới một căn phòng khác, băng qua nó và đến một hành lang. Đến một cánh cửa, ông gõ cửa và bước vào, ra hiệu cho tôi đợi bên ngoài. “Thưa Đấng Thánh thiện”, tôi nghe thấy giọng kính trọng của ông. “Cậu bé Lobsang. Cậu ấy đi bộ không tốt. Bệnh xá nói rằng cậu ấy bị bầm tím nặng và chân vẫn chưa lành”. Tôi không thể nghe thấy câu trả lời, nhưng vị lạt ma già bước ra và thì thầm: “Hãy đi vào, trong khi đứng, cúi chào ba lần và sau đó tiến lên khi được hướng dẫn. Đi chậm – đừng để ngã. Vào ngay đi!”

Ông nhẹ nhàng nắm lấy cánh tay tôi và dẫn tôi qua cửa, nói: “Thưa Đấng Thánh thiện, cậu bé Lobsang!” trước khi rời đi và đóng cửa lại sau lưng tôi. Bị lóa mắt bởi cảm xúc và sợ hãi, tôi ngập ngừng cúi đầu ba lần theo cách mà tôi hy vọng là đúng hướng. “Đến đây! Con trai của ta, lại đây ngồi đi”, một giọng nói trầm ấm vang lên, giọng nói mà tôi đã từng nghe một lần trong chuyến thăm trước đây. Tôi nhìn lên và đầu tiên nhìn thấy chiếc áo Cà sa tỏa sáng dịu dàng trong một tia nắng chói chang chiếu qua cửa sổ. Chiếc áo Cà sa màu vàng nghệ! Trên đó là một khuôn mặt tử tế nhưng cương nghị, khuôn mặt của một người đã quen với việc đưa ra quyết định. Khuôn mặt của một người đàn ông ĐỨC HẠNH, vị Thánh của chúng tôi trên Trái đất này.

Ngài đang ngồi trên một cái bục nhỏ nhô lên khỏi mặt đất. Những chiếc đệm màu đỏ mà ngài ngồi trên đó tương phản với màu vàng nghệ trên chiếc áo choàng của ngài. Ngài ngồi ở tư thế hoa sen, hai tay chắp trước mặt, đầu gối và bàn chân được phủ một tấm vải vàng. Trước mặt ngài có một chiếc bàn thấp chỉ chứa một vài bài báo, một chiếc chuông nhỏ, Hộp Bùa Chú, Kinh Luân và các giấy tờ nhà nước. Khi đó ngài có một bộ ria mép, và phần đuôi của nó hơi dài xuống dưới cằm. Khuôn mặt ngài nở một nụ cười nhân từ, nhưng cũng có dấu vết của sự đau khổ. Trước mặt ngài, bên cạnh chiếc bàn nhỏ, có hai chiếc đệm ngồi trên sàn. Ngài ra hiệu cho tôi và nói: “Ta biết tình trạng thương tích của con, hãy ngồi sao cho thoải mái”. Tôi ngồi xuống một cách biết ơn, vì tất cả sự hối hả xung quanh, tất cả sự phấn khích – tất cả những điều này đang tác động lên tôi và tôi hơi run lên vì mệt mỏi.

“Vậy là!” Ngài nói. “Con đã có một số cuộc phiêu lưu? Ta đã nghe nói nhiều về chúng, chúng rất đáng sợ phải không?” Tôi nhìn ngài, nhìn vào Con người vĩ đại đầy lòng tốt và tri thức này. Bây giờ, tôi biết, tôi PHẢI nói với ngài những gì đã xảy ra vì tôi sẽ không lừa dối ngài. Được rồi, vậy thì tôi sẽ bị trục xuất – bị đuổi đi, bị trục xuất vì phạm Luật và leo quá cao. Đừng bận tâm, tôi sẽ trở thành một người lái đò hoặc một người thợ làm diều hoặc – đầu óc tôi choáng váng với ý nghĩ đó – tôi thậm chí có thể đi du lịch đến Ấn Độ và trở thành một thương nhân.

Đấng Tận Tâm đang chăm chú nhìn tôi và tôi hơi bối rối khi nhận ra rằng Ngài đang nói với tôi. “Thưa Đấng Thánh thiện!” Tôi nói. “Thầy hướng dẫn của con, Lạt ma Mingyar Dondup, đã nói với con rằng ngài là người vĩ đại nhất trên thế giới, và con không thể che giấu sự thật với ngài”. Tôi dừng lại và nuốt một cục nghẹn vào cổ họng. “Thưa Đức Thánh Cha,” tôi nói bằng một giọng yếu ớt. “Sáng nay con dậy sớm và đã leo lên…”. “Lobsang!” Đấng Tối Cao nói, khuôn mặt ngài rạng ngời niềm vui. “Đừng nói nữa, đừng nói với ta nữa, ta đã biết điều đó, bản thân ta cũng từng là một cậu bé. Ồ! từ RẤT lâu rồi”. Ngài dừng lại và nhìn tôi trầm ngâm. “Ta ra lệnh cho con điều này”, ngài nói. “Con không được thảo luận điều này với người khác bất cứ khi nào, con phải giữ im lặng về vấn đề thực sự đã xảy ra. Nếu không, con sẽ bị trục xuất theo yêu cầu của Luật pháp”. Ngài chìm sâu trong suy nghĩ một lúc, rồi trầm ngâm nói thêm: “Đôi khi, có một “phép lạ” cũng tốt, vì nó củng cố niềm tin của các Người Anh em cấp thấp và yếu ớt hơn. Họ cần bằng chứng từ những gì họ tưởng tượng, nhưng “bằng chứng” được kiểm tra chặt chẽ thường chỉ là ảo ảnh, trong khi “Ảo ảnh” mà “bằng chứng” được tìm kiếm thực sự là Thực tế.

Mặt trời giữa buổi sáng tràn ngập căn phòng với ánh sáng vàng. Chiếc áo cà sa màu vàng nghệ của Đấng Tối cao tỏa sáng và nửa như một ngọn lửa khi một cơn gió thì thầm dám làm sột soạt các nếp gấp của nó. Những chiếc đệm màu đỏ có vầng hào quang và phản chiếu màu đỏ hồng trên sàn nhà bóng loáng. Một Bánh xe Cầu nguyện (Kinh luân) nhỏ nhẹ nhàng chuyển động trong làn gió thoảng và các mặt bên trong màu ngọc lam của nó lóe lên những tia sáng nhỏ màu xanh lam trên nền không khí vàng óng. Gần như lười nhác, Đấng Tối Cao đưa tay ra và nhặt cái Kinh Luân lên, nhìn nó một cách suy đoán, rồi lại đặt nó xuống.

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói: “Thầy hướng dẫn của con, người anh em thần thánh của ta, Mingyar Dondup, đánh giá rất cao về con”, “Và những người biết rõ về con cũng vậy. Con có một nhiệm vụ lớn lao trong đời và con sẽ ngày càng nhận được sự quan tâm chăm sóc nhiều hơn từ Thầy hướng dẫn và những người như ngài ấy, vì vậy con sẽ ngày càng rút lui khỏi việc học trên lớp mà sẽ được học thêm với tiêu chuẩn cao hơn nhiều”. Đấng Tối cao dừng lại và nhìn tôi với một nụ cười ẩn hiện nơi khóe mắt. “Nhưng con sẽ phải tiếp tục khóa học đó với vị khách Ấn Độ của chúng ta”, ngài nói.

Điều đó làm tôi sốc. Tôi đã hy vọng tránh được người đàn ông tồi tệ đó – hy vọng thoát khỏi việc tham dự bài giảng buổi chiều nhờ sức mạnh trong trải nghiệm tuyệt vời của tôi. Đấng Tối cao nói tiếp: “Sư phụ của con tối nay hoặc sáng sớm mai sẽ về, ông ấy sẽ báo cáo với ta, sau đó con sẽ cùng ông ấy trở lại Núi Sắt để tiếp tục nghiên cứu chuyên ngành. Các Nhà thông thái đã xác định tương lai của con; nó sẽ luôn khó khăn, nhưng con càng học hỏi NGAY BÂY GIỜ thì cơ hội của con sau này càng cao”. Ngài gật đầu tử tế với tôi, và với lấy chiếc chuông nhỏ của mình. Một âm thanh vang lên, gọi vị lạt ma trưởng lão vội vã bước vào. Tôi đứng dậy một cách khó khăn, cúi đầu ba lần với vẻ lúng túng đáng hổ thẹn – tay ôm lấy ngực để bát và các vật dụng khác không bị rơi ra ngoài như trước đây – rồi lui về phía sau gần như cầu nguyện rằng tôi sẽ không vấp và ngã.

Ra ngoài, lau mồ hôi trên trán và dựa vững vào tường, tôi tự hỏi – CÁI GÌ SẼ TIẾP THEO ĐÂY? Lạt ma trưởng lão mỉm cười với tôi (vì tôi đã được Đấng Tối Cao ban phước) và nói một cách tử tế: “Được rồi, bây giờ, cậu bé. Đó là một cuộc phỏng vấn rất dài đối với một cậu bé còn quá nhỏ, Đấng Tối cao có vẻ hài lòng với con. Bây giờ”, ông nhìn ra ngoài bóng tối “bây giờ là lúc các con ăn và đến lớp học bài về Phật giáo Ấn Độ. Được rồi, chàng trai của tôi, con có thể đi. Nhân viên này sẽ tiễn con qua lính gác”. Ông lại mỉm cười với tôi và quay sang một bên. Vị lạt ma trẻ mà tôi gặp lần đầu tiên xuất hiện cạnh một tấm bình phong và nói: “Đi nào, lối này!” Tôi lảo đảo đi theo theo, nghĩ rằng ngày hôm nay còn chưa được nửa ngày mà hình như đã dài cả tuần rồi.

Vì vậy, một lần nữa tôi đi vào nhà bếp và xin một ít tsampa. Lần này tôi được đối xử một cách TÔN TRỌNG–vì tôi đã được diện kiến Đấng Chí Tôn và đã có những báo cáo rằng ngài hài lòng về tôi! Với bữa ăn vội vã, vẫn còn mùi thơm ngào ngạt, tôi vội vã quay về lớp học.

Giáo viên của chúng tôi đang đứng trước bục giảng và nói: “Bây giờ chúng ta có Diệu Đế Thứ Ba, một trong những Chân Lý ngắn gọn và đơn giản nhất.

 “Như Thích Ca đã dạy, khi một người không còn khao khát một thứ gì thì người đó không còn đau khổ liên quan đến thứ đó; đau khổ chấm dứt với sự chấm dứt hoàn toàn của tham ái.

 “Một người có lòng tham thường thèm thuồng của cải của người khác, anh ta trở nên tham lam –anh ta thèm muốn của cải của người khác, anh ta trở nên mê đắm với của cải của người khác, và khi anh ta không thể có được những thứ đó thì oán giận nảy sinh và người đó ghét chủ sở hữu của thứ mà anh ta thèm muốn. Điều đó làm phát sinh sự thất vọng, tức giận và đau đớn”.

 “Nếu một người tham muốn một thứ mà không thể có được, thì đó là bất hạnh. Hành động phát sinh từ tham ái sẽ dẫn đến bất hạnh. Hạnh phúc đạt được khi người ta ngừng ham muốn, khi người ta đón nhận cuộc sống như nó đến, cả điều tốt lẫn điều xấu”.

Người Ấn Độ lật các trang giấy của mình, xáo trộn một chút, rồi nói, “Bây giờ chúng ta đến với Diệu đế thứ tư trong Tứ Diệu Đế, nhưng điều thứ tư trong Tứ Diệu Đế đã được chia thành tám phần gọi là Bát Chánh Đạo. Có tám bước mà một người có thể thực hiện để đạt được sự giải thoát khỏi những ham muốn của xác thịt, để đạt được sự giải thoát khỏi những tham ái. Chúng ta sẽ đi qua chúng. Đầu tiên là:

“(1) Chánh kiến: Quan điểm đúng đắn. Như Thích Ca đã dạy, người ta phải có quan điểm đúng đắn về bất hạnh. Một người cảm thấy đau khổ hay bất hạnh phải tìm ra chính xác tại sao mình đau khổ hay bất hạnh, anh ta phải tự mình điều tra và tìm ra nguyên nhân của sự bất hạnh này là gì. Khi một người đã tự mình khám phá ra nguyên nhân gây ra khổ hạnh, thì người đó có thể làm điều gì đó để đạt được điều thứ tư trong Tứ Diệu Đế, đó là – Làm thế nào tôi có thể tìm thấy hạnh phúc?”

 “Trước khi chúng ta có thể tiếp tục cuộc hành trình của cuộc đời với một tâm hồn tĩnh lặng và với hy vọng rằng chúng ta sẽ sống cuộc sống như cuộc đời được dẫn dắt, chúng ta phải biết mục tiêu của mình là gì. Điều này đưa chúng ta đến bước thứ hai của Bát Chánh Đạo:”

 “(2) Chánh Tư duy: Nguyện vọng đúng đắn. Mọi người đều “khát vọng” theo đuổi một điều gì đó, đó có thể là lợi ích về tâm lý, thể chất hoặc tinh thần. Có thể là giúp đỡ người khác, có thể chỉ là giúp đỡ chính mình. Nhưng, thật không may, con người đang ở trong một mớ hỗn độn, họ không được định hướng, bối rối, không thể nhận thức được những gì họ nên nhận thức. Chúng ta phải loại bỏ tất cả những giá trị giả dối, tất cả những ngôn từ giả dối, để thấy rõ chúng ta là ai và chúng ta nên là gì, cũng như những gì chúng ta mong muốn. Chúng ta phải từ bỏ những giá trị sai lầm rõ ràng dẫn chúng ta đến bất hạnh. Hầu hết mọi người chỉ nghĩ về “tôi”, “của tôi” và “thuộc về tôi”. Hầu hết mọi người đều quá coi trọng bản thân, họ không quan tâm chút nào đến quyền lợi của người khác. Điều cốt yếu là chúng ta phải nhìn mình như một đối tượng để nghiên cứu, nhìn mình như nhìn một người lạ: Các cậu có thích người lạ không? Các cậu có muốn người đó là bạn thân của các cậu? Làm sao lại muốn cùng hắn sống cả đời, cùng hắn ăn, cùng hắn hít thở, cùng hắn ngủ? Bạn phải có những khát vọng đúng đắn trước khi bạn có thể đạt được thành công trong cuộc sống, và từ khát vọng đúng đắn này, bạn phải có:

“(3) Chánh Ngữ: Điều này có nghĩa là một người phải kiểm soát lời nói của mình, không được nói những lời vu khống, không được coi tin đồn như thể nó là sự thật. Với lời nói đúng đắn, người ta phải luôn cho người khác lợi ích của sự nghi ngờ, và nên giữ lại lời nói khi nó có thể làm hại người khác, chỉ nói ra khi lời nói đó tốt, khi lời nói đó có thể giúp ích. Lời nói có thể nguy hiểm hơn gươm giáo, lời nói có thể độc hơn thuốc độc độc nhất. Lời nói có thể hủy diệt một quốc gia. Như vậy, người ta phải có chánh ngữ, và chánh ngữ phát sinh qua:

“(4) Chánh Nghiệp: Hành xử đúng đắn. Nếu một người cư xử đúng cách thì không nói lời sai trái. Như vậy, Chánh Nghiệp đóng góp về vật chất cho Chánh ngữ và Chánh Tư duy.

 “Chánh Nghiệp có nghĩa là một người không nói dối, không uống rượu say, không trộm cắp.

“Thích Ca đã dạy rằng chúng ta là kết quả từ những suy nghĩ của chính mình. Những gì chúng ta đang là bây giờ, là những gì mà suy nghĩ của chúng ta trong quá khứ đã khiến chúng ta trở thành. Vì vậy, nếu bây giờ chúng ta suy nghĩ đúng đắn, nếu bây giờ chúng ta hành động đúng đắn, thì chúng ta sẽ “đúng đắn” vào một dịp nào đó trong tương lai gần.

 “Thích Ca đã nói, “Hận thù không bao giờ được chấm dứt bởi hận thù; Sự thù hận chỉ có thể được chiến thắng bởi tình yêu thương”.

 “Như ta thường được dạy, người ta không được đưa ra bằng chứng về khả năng ngoại cảm, người ta không được tấn công những người tấn công mình, vì theo câu nói của Thích Ca, người ta không được tấn công những người tấn công mình bằng ngôn ngữ lăng mạ, hoặc bằng gậy gộc hoặc gạch đá. Thích Ca nói, “Nếu ai đó nguyền rủa bạn, bạn phải kìm nén mọi oán giận và quyết tâm chắc chắn rằng tâm trí của bạn sẽ không bị xáo trộn và không có lời tức giận nào được thốt ra khỏi môi bạn. Bạn sẽ vẫn tử tế, thân thiện và không thù hận”.

 “Niềm tin Phật giáo của chúng ta là con đường Trung Đạo, một quy tắc sống, một quy tắc làm cho người khác như thể làm cho chính mình. Tiếp theo của Bát Chánh Đạo là:

 “(5) Chánh mạng: Sinh nhai đúng đắn. Theo Giáo lý của Đức Phật, có một số nghề nghiệp có hại cho con người, một số nghề nghiệp mà một Phật tử chân chính không thể theo được. Chẳng hạn, một Phật tử chân chính không thể làm đồ tể hoặc người bán thuốc độc, cũng không thể là người buôn bán nô lệ hay chủ nô. Một Phật tử không thể tham gia hoặc phân phối rượu. Người Phật tử chân chính, vào thời của Thích Ca, nhất thiết phải là người lang thang một mình hoặc sống trong tu viện.

 “(6) Chánh Tinh Tấn: Nỗ lực đúng đắn. Chánh Tinh Tấn có một ý nghĩa đặc biệt; nó có nghĩa là một người phải tiến lên với tốc độ phù hợp nhất của mình trên Bát Chánh Đạo. Một người đang tìm cách tiến bộ không nên nôn nóng và cố gắng tiến lên quá nhanh trước khi học được những bài học cần học. Nhưng một lần nữa, người tìm kiếm đó cũng không được cố gắng kiềm chế với sự nhún nhường giả tạo, với sự khiêm tốn giả tạo. Một người chỉ có thể tiến bộ với tốc độ được phân định cho chính mình.

 “(7) Chánh Niệm: Sự lưu tâm đúng đắn. Chánh Niệm điều khiển hành động của Con Người. Ý nghĩ là cha đẻ của hành động. Nếu bạn nghĩ về một việc, đó là bước đầu tiên để làm việc đó, và một số suy nghĩ rất không hài hòa. Những ham muốn thể xác có thể làm một người mất tập trung và gây hại cho người đó. Người ta có thể ham muốn thức ăn quá nhiều hoặc quá phong phú; ham muốn không làm cho người ta đau đớn, nhưng ăn quá nhiều thì có. Bất hạnh và đau đớn phát triển từ việc ăn quá nhiều, và kéo theo việc ham muốn ăn quá mức.

 “Người Phật tử phải nhớ rằng những cảm giác chỉ là ngắn ngủi, đến rồi đi như gió, luôn thay đổi. Cảm xúc là thứ không ổn định và không thể dựa vào. Người ta phải rèn luyện bản thân để người ta luôn có chánh niệm bất kể những ham muốn nhất thời của họ.

 “(8) Chánh Định: Suy ngẫm đúng đắn. Như Thích Ca đã biết rõ, yoga không phải là câu trả lời cho sự thành tựu tâm linh. Yoga chỉ đơn thuần là một tập hợp các bài tập được thiết kế để cho phép tâm trí kiểm soát cơ thể vật lý, chúng được thiết kế để khuất phục cơ thể theo lệnh của tâm trí. Chúng không được thiết kế để nâng cao tinh thần.

 “Trong Chánh Định, người ta phải kiểm soát những suy nghĩ không phù hợp của tâm trí, người ta phải biết những nhu cầu thực sự của chính mình. Bằng cách có Chánh Niệm, người ta có thể thiền định – chiêm nghiệm – để không cần lý luận, người ta vẫn có thể đi đến kết luận bằng trực giác về điều gì đúng cho chính mình và điều gì sai cho chính mình.”

Giọng nói của ông thầy Ấn Độ dừng lại và ông ta dường như quay trở lại hiện thực. Đôi mắt ông ta lướt qua chúng tôi rồi dừng lại ở tôi. “Cậu!” ông nói, ngón tay duỗi ra chỉ tới. “Ta muốn nói chuyện với cậu, hãy ra ngoài hành lang”. Tôi từ từ đứng dậy và tiến về phía cửa. Thầy giáo Ấn Độ đi theo và đóng cửa phía sau ông ta lại, sau đó ông ta mở nó ra lần nữa rồi thò đầu vào góc nói: “Các cậu im lặng, không được có một tiếng động nào từ các cậu, ta ở ngay bên ngoài”. Ông ta đóng cửa lại và đứng quay lưng về phía nó. “Bây giờ, cậu bé”, ông nói, “cậu đã từng gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma; Ngài ấy đã nói gì với cậu?” “Thưa Thầy khả kính,” tôi thốt lên. “Con được lệnh không được lặp lại bất cứ điều gì đã xảy ra, không được nói một lời nào đã qua”. Ông ta giận dữ quay sang tôi và hét lên: “Ta là Thầy của ngươi, ta ra lệnh cho ngươi nói cho ta biết! Ngươi có đề cập đến ta không?”. “Con không thể nói với ngài, thưa thầy”, tôi nói. “Con chỉ có thể nhắc lại rằng con bị cấm đưa ra bất kỳ bình luận nào về những gì đã qua”. “Ta sẽ báo cáo mi vì sự xấc xược và không vâng lời, và nói chung là một học sinh rất kém cỏi”. Nói xong, ông ta rướn người về phía trước và đánh tôi một cách thô bạo vào bên trái và bên phải đầu tôi. Ông ta quay người bước vào lớp, khuôn mặt đỏ bừng nóng nảy. Tôi đi theo và lại tiếp tục về chỗ của mình.

Giáo viên người Ấn Độ trở lại bục giảng của mình và sau đó ông ta cầm giấy tờ của mình lên. Ngay khi ông ta mở miệng, một lạt ma bước vào. “Thưa Ngài đáng kính,” vị lạt ma nói với ông thầy người Ấn Độ, “Tôi phải yêu cầu Ngài đến gặp Đức Trụ trì và tôi được chỉ thị tiếp tục bài giảng này. Nếu ngài vui lòng chỉ ra chỗ mà ngài đã dạy đến, tôi sẽ rất vui được tiếp tục”. Vị thầy Ấn Độ hờn dỗi đưa ra một bản tóm tắt sơ bộ về vị trí, và nói rằng ông sắp đối phó với Niết bàn. Sau đó, ông ta nói, “Điều này làm ta rất vui khi được rời khỏi lớp học của các ngươi, và ta hy vọng niềm vui của ta có thể tăng lên khi không quay lại lớp học này”. Nói xong, ông ta cho tất cả giấy tờ vào chiếc túi da của mình, đóng nó lại với một tiếng lạch cạch hung ác, rồi lao ra khỏi phòng, để lại vị lạt ma trông khá ngạc nhiên trước thái độ nóng nảy của ông ta. Chúng tôi mỉm cười vì biết bây giờ mọi việc sẽ tốt hơn, vì vị lạt ma khá trẻ này vẫn còn đủ trẻ để hiểu được cảm xúc của các cậu bé. “Các bạn – các bạn đã tham dự bài giảng này bao lâu rồi? Các bạn đã có thức ăn chưa? anh ấy hỏi. “Có ai trong số các bạn muốn rời đi một chút không?” Tất cả chúng tôi đều mỉm cười đáp lại anh ấy và đảm bảo với anh ấy rằng chúng tôi chưa vội rời đi. Vì thế anh gật đầu hài lòng trong khi đi đến cửa sổ và nhìn ra ngoài một lúc.

Chiếc áo Cà sa 15

Người dịch: TTQDung

CHƯƠNG 15

Ông già bị mù – mù hoàn toàn. Tôi ngạc nhiên nhìn vào mắt ông ấy, chúng thật ĐẶC BIỆT. Trong một lúc, tôi không thể xác định được điều gì đã khiến tôi nghĩ rằng chúng rất kỳ lạ, và sau đó tôi nghe ông kể đã bị mù như thế nào.

Ở Tây Tạng, các ẩn sĩ được giam trong các xà lim sâu bên trong một ẩn thất. Các phòng giam hoàn toàn, hoàn toàn không có ánh sáng, và sau ba năm hoặc bảy năm, nếu một người muốn được thả ra, nếu anh ta cảm thấy rằng việc tự áp đặt ở ẩn của mình nên chấm dứt, thì cũng phải cần một thời gian đáng kể. Đầu tiên, một lỗ rất nhỏ được tạo ra trên phía mái để sau đó một vệt sáng nhỏ có thể lọt vào. Sau vài ngày, cái lỗ mở rộng ra, để có lẽ sau khoảng một tháng, người bên trong có thể nhìn thấy lại được. Vì trong thời gian giam hãm, đồng tử của mắt mở hoàn toàn; và nếu ánh sáng đột ngột chiếu vào thì người đó sẽ bị mù ngay lập tức. Ông già này đã ở trong một căn phòng mà một bên của nó đã bị một tảng đá rơi xuống đập vào, xé toạc. Lúc ẩn sĩ đang ngồi trong xà lim khoảng hai mươi năm; tiếp theo là một tiếng va chạm khủng khiếp và ầm ầm, rồi một bên ẩn thất của ông đã bị xé toạc, và ông già đang nhìn thẳng vào mặt trời đang chiếu sáng. Ngay lập tức ông ấy bị mù.

Tôi lắng nghe những gì ông già đang nói với Thầy tôi: “và theo phong tục, chúng tôi cung cấp thức ăn vào ngày đầu tiên, ngày thứ hai và ngày thứ ba. Nhưng thức ăn không bị động đến, và do đó, Người anh em của chúng ta không trả lời, chúng tôi tin rằng linh hồn của anh ấy đã cất cánh bay khỏi lớp vỏ trống rỗng của thể xác.” Thầy tôi nắm lấy cánh tay của ông già và nói: “Đừng lo lắng, người anh em của tôi, vì chúng ta sẽ xem xét vấn đề. Có lẽ bạn sẽ dẫn chúng tôi đến mật thất chứ?

Những người khác quay lại và dẫn đường và băng qua khoảng sân nhỏ của họ. Bên trái có một loạt mật thất nhỏ, tôi quan sát thấy năm xà lim, rất trống trải, rất thiếu tiện nghi, vì chúng chỉ là những mật thất, chỉ là những hang ở sườn núi đá. Không có bàn, không tranh ảnh, không gì cả; chỉ là một sàn đá mà một nhà sư có thể ngồi hoặc nằm ngủ trên đó. Chúng tôi đi qua đó và bước vào một căn phòng lớn tối om, căn phòng nằm chênh vênh trên một mỏm đá nhô ra từ sườn núi. Đối với tôi, nó trông có vẻ như là một cỗ máy run rẩy, nhưng rõ ràng nó đã tồn tại ở đó vài trăm năm.

Ở trung tâm của căn phòng rộng lớn ảm đạm này là một căn phòng khác. Khi chúng tôi đi đến đó, bóng tối tăng lên. Những chiếc đèn bơ được mang đến, và chúng tôi bước vào một hành lang nhỏ, tối om, cách khoảng mười bước chân chúng tôi tới một bức tường trống. Những ngọn đèn bơ phát ra ánh sáng yếu ớt dường như làm nổi bật bóng tối. Thầy hướng dẫn của tôi lấy một trong những chiếc đèn và giữ nó ngang tầm ngực, sau đó tôi thấy có một cái cửa sập rất khít. Thầy tôi mở nó ra và cảm nhận về thứ dường như là một cái tủ. Ông gõ thật to vào mặt trong của tủ và chăm chú lắng nghe. Sau đó, ông đặt chiếc đèn của mình vào bên trong, và tôi thấy rằng đó rõ ràng là một chiếc hộp được lắp vào tường. Thầy tôi nói, “Lobsang, đây là một cái hộp có hai cửa, cửa này và cửa bên trong. Người cư ngụ trong ẩn thất đợi đến một thời điểm nhất định, sau đó anh ta mở cửa, sờ soạng và lấy thức ăn và nước uống đã đặt sẵn cho anh ta. Anh ta không bao giờ nhìn thấy ánh sáng, anh ta không bao giờ nói chuyện với bất cứ ai. Trên thực tế, anh ta tuân theo lời thề im lặng. Bây giờ chúng ta có một vấn đề là người ấy đã không có thức ăn trong nhiều ngày và chúng ta không biết liệu người ấy còn sống hay đã chết.”

Ông nhìn vào khe hở, rồi ông nhìn tôi. Nhìn lại khe hở, ông đo nó bằng bàn tay và cánh tay của mình, rồi ông đo cho tôi. Sau đó ông nói, “Ta thấy rằng nếu con cởi áo choàng ra, con có thể lách qua khe hở này và dùng sức mạnh mở cánh cửa đó ra từ mặt kia, sau đó con có thể xem liệu nhà sư có cần được chăm sóc hay không. “Ôi! Thưa thầy!” Tôi kêu lên hoàn toàn sợ hãi. “Điều gì xảy ra nếu con đi vào mà không thể ra ngoài?”

Thầy tôi suy nghĩ một chút rồi trả lời: “Trước tiên, con sẽ được hỗ trợ bằng cách được nhấc lên. Sau đó, con có thể dùng một hòn đá, đập vào cánh cửa bên trong. Khi con đập xong, chúng ta sẽ đưa con vào, và con có thể dang rộng tay cầm một chiếc đèn. Nó phải đủ sáng để cho phép con nhìn thấy người đó có cần giúp đỡ hay không.”

Thầy hướng dẫn của tôi đi vào phòng khác và lấy ba chiếc đèn bơ, cạy bấc ra khỏi hai cái, và xoắn ba chiếc lại với nhau thành một chiếc đèn mà ông nén bơ rất cẩn thận. Trong khi đó, một nhà sư đi ra ngoài và quay trở lại mang theo một tảng đá khá lớn. Anh ấy đưa nó cho tôi và tôi nhấc nó lên để xem trọng lượng và để cân bằng. “Sư phụ, tại sao hòa thượng đó không thể trả lời nổi một câu hỏi?” tôi hỏi. “Bởi vì ông ấy đã tuyên thệ, với lời thề không nói trong một thời gian nhất định,” Thầy tôi trả lời.

Tôi miễn cưỡng cởi áo choàng, rùng mình trong không khí lạnh giá của miền núi. Chakpori đã đủ lạnh rồi, nhưng ở đây còn lạnh hơn, cái lạnh thấu xương. Tôi tiếp tục đi dép vì sàn nhà giống như một khối băng.

Trong khi đó, một tu sĩ đã lấy hòn đá và đập mạnh vào cửa trong, nó bật ra khỏi khung với một tiếng va lớn, nhưng những người khác, mặc dù đã cố gắng hết sức, cũng không thể nhìn vào bên trong mật thất. Đầu họ quá to, vai quá rộng. Vì vậy, Thầy hướng dẫn của tôi giữ tôi nằm ngang và tôi đưa tay ra như thể sắp lặn xuống, và một nhà sư thắp sáng ba chiếc bấc giờ đã được cố định trong chiếc đèn bơ, đặt nó cẩn thận giữa hai tay tôi. Sau đó, tôi trượt về phía trước. Tôi thấy khung của cái tủ này thật quá tệ, hoặc cái lối đi, rất gồ ghề. Với nhiều tiếng lầm bầm và cảm thán, tôi trượt theo lối vào giống như chiếc hộp, bị vặn sang một bên và lắc qua lắc lại rồi cuối cùng cánh tay và đầu của tôi nhô ra. Ngay lập tức tôi bị choáng ngợp bởi một mùi hôi thối kinh tởm. Hoàn toàn hôi thối, đó là mùi của thịt thối rữa, mùi của những thứ đã hỏng. Người ta cũng ngửi thấy mùi tương tự khi tình cờ bắt gặp một con bò yak hoặc một con ngựa chết do bị nhốt quá lâu. Đó là một cái mùi làm tôi nhớ đến tất cả các thiết bị vệ sinh trên thế giới đã bị hỏng cùng một lúc! Tôi hoàn toàn bịt miệng với mùi hôi thối, nhưng tôi đã cố gắng kiểm soát bản thân đủ để giơ cao ngọn đèn, và trong ánh sáng lập lòe của nó phản chiếu từ những bức tường đá, tôi có thể nhìn thấy vị tu sĩ già. Đôi mắt ông ấy sáng lên nhìn tôi, ông ấy đang nhìn chằm chằm vào tôi, và tôi nhảy dựng lên vì sợ hãi đến nỗi da tôi bị trầy xước rất nhiều trên vai. Tôi nhìn lại ông ta, và sau đó tôi thấy rằng đôi mắt ông ta sáng lên trong ánh sáng phản chiếu, nhưng chúng không chớp, chúng không dao động. Tôi vẫy chân như một tín hiệu rằng tôi muốn ra ngoài – nhanh lên. Tôi bị kéo lại nhẹ nhàng, rồi tôi thấy ốm, ốm, ốm!

 “Chúng ta không thể để ông ấy ở đó!” Thầy hướng dẫn của tôi nói. “Chúng ta sẽ phải phá bức tường và đưa ông ấy ra ngoài.” Tôi hết buồn nôn và mặc áo choàng vào. Những người khác nhận được dụng cụ bao gồm một cái búa nặng và hai xà beng có đầu dẹt. Sau đó, họ áp các xà beng vào các hốc ở phần xa của bức tường và dùng búa đập. Dần dần một khối được gỡ bỏ, rồi khối khác, rồi khối khác. Mùi hôi thối thật khủng khiếp. Cuối cùng, cái lỗ đủ lớn cho một người bước vào, và một  nhà sư đi vào mang theo hai ngọn đèn bơ. Ngay sau đó anh ấy trở lại với khuôn mặt xám xịt, và anh lặp lại màn trình diễn của tôi, điều mà tôi rất vui khi ghi nhận.

 “Chúng ta sẽ phải quấn một sợi dây thừng quanh ông ấy và kéo ông ấy ra ngoài,” vị tu sĩ đó nói, “ông ấy đang tan thành từng mảnh. Ông ấy đang trong tình trạng thối rữa nặng.” Một tu sĩ lặng lẽ rời khỏi phòng và nhanh chóng trở lại với một sợi dây thừng dài. Bước vào cái lỗ trên tường (ban đầu cánh cửa được xây tường bít lại), chúng tôi nghe thấy tiếng anh ta đi lại, rồi anh ta quay lại. “Không sao đâu, bạn có thể kéo,” anh nói. Hai nhà sư nhẹ nhàng cầm lấy sợi dây và kéo. Ngay sau đó, đầu của ông lão xuất hiện rồi tới hai cánh tay của ông; ông đang trong một tình trạng khủng khiếp. Các nhà sư cẩn thận kéo ông ra và sau đó ông được cẩn thận nhấc lên bằng tay rồi mang ra bên ngoài.

Ở phía xa của căn phòng có một con đường mòn nhỏ dẫn xa hơn lên núi. Hai nhà sư với gánh nặng của họ đã lên dốc và biến mất khỏi tầm nhìn của chúng tôi. Tôi biết rằng họ sẽ mang cái xác đến một bề mặt bằng phẳng, nơi đó những con kền kền sẽ sớm cắn xé nó. Bởi vì không có cách nào chôn xác ở đây trong đá núi cứng, chúng tôi phụ thuộc vào việc “thiên táng”.

Trong khi việc đó đang được thực hiện, vị tăng thị giả đi cùng với chúng tôi đã khoét một lỗ nhỏ ở phía bên kia của bức tường để cho một tia sáng lờ mờ lọt vào. Sau đó, anh ta lấy các xô nước và dội vào bên trong mật thất, làm sạch các thứ từ người cư ngụ cuối cùng. Chẳng bao lâu nữa, không biết bao lâu, sẽ có người khác tiếp quản mật thất đó và sẽ sống ở đó đến mười? hai mươi? Hay bao nhiêu năm đây?

Cuối ngày hôm đó, khi tất cả chúng tôi đang ngồi, và ông già mù nói: “Ta có thể cảm nhận rằng ở đây chúng ta có một người được định sẵn là sẽ phải đi xa và nhìn thấy nhiều điều. Ta đã nhận được thông tin về cậu ấy từ khi tay ta chạm vào đầu cậu ấy. Này cậu bé, hãy ngồi trước mặt ta.”

Tôi miễn cưỡng tiến tới và ngồi ngay trước mặt ông già mù. Ông ta nhấc tay lên, chúng lạnh như băng, và đặt chúng lên cái sọ cạo trọc của tôi. Những ngón tay của ông nhẹ nhàng lần theo hình dáng đầu tôi và thăm dò những vết sưng tấy khác nhau mà tôi có. Sau đó, ông nói: “Con sẽ có một cuộc sống rất khó khăn.” Tôi rên rỉ với chính mình. Mọi người đều nói với tôi rằng tôi sẽ có một cuộc sống khó khăn và tôi phát ốm vì toàn bộ sự việc. “Sau khi con đã trải qua những khó khăn, thử thách và ít nhiều khổ nẵm, thì con sẽ đạt được thành công ngay trước khi kết thúc. Con sẽ làm điều cần làm khi con đến thế giới này.

Tôi đã nghe tất cả trước đây. Tôi đã từng gặp các thầy bói, nhà tiên tri, nhà chiêm tinh và nhà thấu thị, và người nào trong số họ cũng đều nói với tôi cùng một thứ. Sau khi nói với tôi như thế, ông chỉ vẫy tay, vì vậy tôi đứng dậy và di chuyển ra xa nhất có thể, một hành động khiến ông cười khúc khích thích thú.

Thầy tôi và những người khác đã thảo luận rất lâu về những vấn đề rất nghiêm trọng. Điều đó chẳng có ý nghĩa gì nhiều đối với tôi, họ đang nói về những lời tiên tri và những điều sẽ xảy ra ở Tây Tạng. Họ đang nói về những phương pháp tốt nhất để bảo tồn Tri Thức Thiêng Liêng, và các bước đã được thực hiện như thế nào để mang nhiều sách và bài báo khác nhau lên núi cao, nơi chúng sẽ được cất giữ trong các hang động. Họ cũng nói về những món đồ giả sẽ được để lại trong các ngôi đền như thế nào, để những đồ vật cổ xưa không bị rơi vào tay kẻ xâm lược trong những năm sau này.

Tôi ra khỏi hàng rào và ngồi trên một tảng đá, nhìn ra phía xa bên dưới Thành phố Lhasa giờ đang bị che khuất bởi bóng tối của màn đêm đang đến rất nhanh. Chỉ có những đỉnh cao hơn của Chakpori và Potala là vẫn còn trong ánh hoàng hôn mờ nhạt. Chúng trông giống như hai hòn đảo nổi trên mặt biển tím thẫm. Khi tôi ngồi đó, dần dần các hòn đảo dường như chìm trong bóng tối bao trùm. Sau đó, một vệt sáng của ánh trăng chiếu xuống rìa núi chạm vào mái của Potala, làm sáng lên những tia sáng vàng. Tôi quay lại và đi vào bên trong rào, cởi áo choàng, cuộn mình trong chăn và ngủ thiếp đi.

HẾT

Chiếc áo Cà sa 14

Người dịch: TTQDung

Chương 14

 “Ôi! Aaaaa!!” Tôi mệt mỏi lăn qua lăn lại và nằm một lúc tự hỏi mình đang ở đâu đây. Tôi miễn cưỡng tỉnh dậy, gần như vậy. Bầu trời phía đông hơi ửng hồng. Các tinh thể băng giá lơ lửng trên cao trong luồng gió từ các đỉnh núi, trông lấp lánh với những tia sáng hình lăng trụ có màu sắc cầu vồng. Ngay phía trên tôi, bầu trời vẫn có màu tím đậm, màu tím nhạt dần đi khi tôi quan sát. Tôi ơi! Trời thật lạnh. Sàn đá giống như một khối băng, và tôi rùng mình. Một chiếc chăn mỏng không thể bảo vệ tôi khỏi chiếc giường lạnh lẽo. Ngáp dài, tôi dụi mắt, cố xua đi cơn buồn ngủ, cố trì hoãn thêm vài phút nữa cho nỗ lực thức dậy trong buổi sáng lạnh giá này.

Bực bội, vẫn còn ngái ngủ, tôi mò mẫm cái “gối” mà ban ngày là áo choàng của tôi. Bị ảnh hưởng bởi giấc ngủ đang say, tôi sờ soạng và chọc chọc, cố gắng tìm cách nhỏm dậy với chiếc áo choàng của mình. Trong cơn tuyệt vọng, tôi không thể tỉnh dậy đúng cách, tôi đoán bừa và kéo chiếc áo quanh người. Càng thấy khó chịu, tôi phát hiện ra chiếc áo bị ngược từ trong ra ngoài. Lẩm bẩm một mình, tôi xé nó ra. Đúng nghĩa đen là “xé nó ra”, thứ cũ nát bị xẻ ra tận đằng sau! Tôi buồn bã quan sát thiệt hại, đứng trần truồng trong không khí lạnh giá, không khí lạnh đến nỗi hơi thở của tôi phả ra như một đám mây trắng. Bây giờ thì tôi đã làm gì nó đây. Sư trưởng nhóm phục vụ sẽ nói gì đây? Làm hư hỏng tài sản của lạt ma, nào là bất cẩn bừa bãi, nào là thằng bé đầu óc ngu ngốc; tôi biết tất cả những gì ông ấy sẽ nói, ông ấy đã nói như thế với tôi rất nhiều lần.

Chúng tôi không được cấp áo choàng mới tinh. Khi một cậu bé trở nên lớn hơn cái áo của mình, cậu ta được trao cho một chiếc áo khác từ những cậu bé khác đã từng lớn hơn. Tất cả áo choàng của chúng tôi đều cũ. Một số cái được gắn kết với nhau bằng niềm tin hơn là bằng sức mạnh. Bây giờ thì cái áo choàng của tôi đã xong đời nó rồi, tôi kết luận, khi nhìn vào những gì còn sót lại. Giữa các ngón tay tôi, là lớp vải mỏng, trống rỗng, không có “sự sống”. Tôi buồn bã ngồi xuống và kéo cái chăn quanh người. Tôi nên làm gì bây giờ đây? Một cách thận trọng, tôi tạo thêm một vài vết rách,  rồi sau đó với chiếc chăn quấn quanh người như một chiếc áo choàng, tôi đi ra ngoài để tìm Sư trưởng phục vụ. Khi tôi đến văn phòng ông, ông đang nói những câu thật kinh khủng với một thằng bé muốn có một đôi dép khác. “Bàn chân được tạo ra trước cả dép, nhóc à, bàn chân được tạo ra trước dép đấy!” ông nói. “Nếu ta có quyền, tất cả mấy người sẽ đi chân trần, nhưng. ĐÂY. Đây là đôi khác. Giữ gìn cho tốt đấy nhé. Nào! Còn cậu thì muốn gì?” ông hỏi khi bắt gặp tôi trong chiếc chăn xơ xác.

Cách mà ông ta nhìn tôi! Theo kiểu hoàn toàn trợn trừng, khi nghĩ rằng một đứa học trò khác muốn có một thứ từ kho báu quý giá của ông ta! “Thưa Sư Phụ”, tôi nói với vẻ run sợ đáng kể, “chiếc áo choàng của con đã bị hỏng. Nhưng nó rất, rất mỏng và đã sờn rách từ lâu rồi”. “HƯ HỎNG Ư???” Ông ta oang oang. “TA mới là người nói điều đó nếu thứ gì bị hư hỏng, không phải mi, thằng bé khốn khổ. Bây giờ hãy tiếp tục công việc của mi trong cái bộ đồ rách rưới, vì sự trơ tráo của mi”. Một trong những nhà sư phục vụ cúi xuống và thì thầm điều gì đó. Sư trưởng phục vụ cau có và gầm lên, “Cái gì? Cái gì? Nói to lên, được không, NÓI TO LÊN!”

Nhà sư phục vụ tuôn ra một tràng: “Tôi nói rằng cậu bé này mới đây đã được Đấng tối cao gửi tới. Cậu ấy cũng được Đức Viện trưởng của tôi cử đến đây, và cậu ấy là đệ tử của Đạo sư đáng kính Lạt ma Mingyar Dondup”.

 “Úp! Úi chà!” Sư trưởng phục vụ thở hổn hển. “Tại sao, nhân danh Đức Phật, anh không nói cho tôi biết cậu ta là ai. Anh là đồ đần độn, ngu xuẩn, tệ hơn bất kỳ thầy tu nào!” Sư trưởng phục vụ quay sang tôi với một nụ cười giả tạo trên nét mặt sắc cạnh của ông ta, tôi có thể nhận ra cách đó để khiến ông ta trông dễ thương. Ông ta nói, “Hãy cho ta xem chiếc áo choàng, cậu bé của ta”. Tôi lặng lẽ đưa cho ông ta chiếc áo choàng với phần sau được lật lên để những vết rách là thứ đầu tiên mà ông ta nhìn thấy. Ông ta cầm chiếc áo rách và kéo rất nhẹ. Tôi vui mừng vì thấy vết rách lại dài hơn. Và với một cú kéo cuối cùng, chiếc áo đã bị chia làm hai mảnh. Sư trưởng phục vụ nhìn tôi với vẻ kinh ngạc há hốc mồm, và nói: “Đúng! Nó thật dễ rách nhỉ? Hãy đi với ta, chàng trai của ta, con sẽ có một chiếc áo mới. Ông ta đặt tay lên khuỷu tay tôi, và khi đó ông cảm nhận được cái chăn của tôi. “Hừm! Nó rất xơ xác, con thật không may mắn với chiếc chăn và chiếc áo choàng của mình. Con sẽ có một cái mới. Chúng tôi cùng nhau đi vào một căn phòng bên cạnh. Chà, phòng ư? Nó giống một hội trường hơn. Các loại y phục đủ loại được treo trên móc cố định vào tường, từ y phục của các Lạt ma cao cấp cho đến loại y phục tầm thường nhất dành cho công nhân. Giữ cánh tay tôi trong tay, ông ta mím môi dẫn tôi đi và hay dừng lại để sờ và cảm nhận vải vóc; như thể ông ta yêu thương tất cả.

Chúng tôi đến khu vực có quần áo dành cho chú tiểu. Chúng tôi dừng lại, và ông ta đưa tay lên cằm rồi kéo mạnh dái tai. “Vậy, con là cậu bé đầu tiên bị thổi bay xuống núi, và sau đó bị thổi bay lên Mái Vàng? Hừm! Và con là cậu bé đã đến gặp Đấng Tối cao theo biệt lệnh, phải không? Hừm! Và con có phải là cậu bé mà ta đã đích thân nghe rằng đã được nói chuyện với Viện chủ Tu viện này phải không? Hừm! Và con! chà, chà, đó là điều phi thường nhất. Con đã được sự ưu ái của chính Viện chủ. Hừm!” Ông ta cau mày, và dường như đang nhìn vào chốn xa xăm. Tôi đoán rằng ông ta đang cố gắng quyết định xem tôi sẽ phải gặp lại Đấng Chí Tôn hay gặp lại Đức Viện chủ. Và, ai biết được? Ngay cả một thằng nhỏ cũng có thể bị sử dụng, nhằm đạt được mục đích của một người đàn ông đầy tham vọng.

 “Ta sẽ làm một điều rất khác thường. Ta sẽ đưa cho con một chiếc áo mới tinh, mới được làm vào tuần trước. Nếu Đấng Tối Cao đã ban phước cho con, và Đức Viện trưởng đã ban phước cho con, và Đại Lạt ma Mingyar Dondup đã ban phước cho con, thì ta phải xem con ăn mặc như thế nào để có thể đến gặp họ mà không làm ta xấu hổ. Hừm!” Ông ta quay đi và dẫn đường đến một căn phòng khác, một khu phụ bên ngoài nhà kho lớn. Ở đây có những chiếc áo choàng mới vừa được các nhà sư may xong, dưới sự hướng dẫn của các lạt ma. Ông ta mân mê một đống đồ chưa treo trên giá, lấy ra một cái và nói: “Mặc vào đi, chúng ta thử xem vừa không”. Tôi nhanh chóng vứt bỏ cái chăn của mình, cẩn thận gấp nó lại ngay ngắn, rồi mặc thử chiếc áo choàng mới toanh này. Như tôi biết rõ, nếu một người mặc chiếc áo mới tinh, thì đó là một dấu hiệu cho các thầy tu khác, và với cả các nhà sư, rằng người đó có một “thế lực” đâu đó, và người đó có tầm quan trọng nào đó. Vì vậy, tôi thực sự vui sướng khi có một chiếc áo choàng mới. Bởi vì, trong khi một chiếc áo cũ đôi khi được coi là dấu hiệu cho thấy một người đã đi tu trong một thời gian dài, thì một chiếc mới toanh là dấu hiệu cho thấy người đó là quan trọng.

Chiếc áo mới rất vừa vặn với tôi. Nó dày hơn nhiều, và thậm chí chỉ trong khoảnh khắc nó xuất hiện trên người tôi, đã mang lại một luồng ánh sáng ấm áp cho cơ thể run rẩy trước đây của tôi. “Cái này hoàn toàn vừa vặn, thưa Sư phụ”, tôi nói với vẻ thích thú. “Hừm! Ta nghĩ chúng ta có thể làm tốt hơn thế một chút. Đợi tí”. Ông ta đào sâu vào đống đồ, lầm bầm và lẩm bẩm, và thỉnh thoảng lại mân mê chuỗi hạt của mình. Cuối cùng, ông ta chuyển sang một đống đồ khác, và lấy ra một bộ quần áo chất lượng tốt hơn nhiều. Với một tiếng thở dài, giọng ông ta khá rên rỉ, “Đây là một trong những lô hàng đặc biệt, chúng tình cờ được làm từ một loại vật liệu cao cấp. Bây giờ hãy thử cái này đi, ta nghĩ nó sẽ gây ấn tượng khá tốt với cấp trên của chúng ta”.

Đúng, không còn nghi ngờ gì nữa. Đó là một chiếc áo choàng loại tốt. Nó vừa vặn với tôi, có lẽ hơi dài, dài đến tận chân tôi. Nhưng điều đó có nghĩa là tôi sẽ có chỗ để lớn lên, và chiếc áo choàng mới toanh này sẽ giúp tôi mặc được lâu hơn. Dù sao đi nữa, một thứ hơi lớn luôn có thể được rút ngắn lại bằng cách tạo một cái “khoang” lớn hơn ở phía trước. Và với chiếc túi lớn hơn, tôi có thể mang theo bên mình nhiều thứ hơn. Tôi quay đi quay lại, và Sư trưởng phục vụ nhìn tôi cẩn thận. Rồi cuối cùng ông ta gật đầu, và trề cái môi dưới, trước khi nhận xét với vẻ u ám đáng kể: “Đã đi xa như vậy, chúng ta nhất định phải đi xa hơn một chút. Con sẽ có chiếc áo choàng đó, con trai của ta, và ta sẽ cho con một chiếc khác nữa. Bởi vì ta nhận thấy rằng con không có chiếc nào dự trữ”. Tôi khó theo kịp những gì ông ta nói vì ông ta đang lầm bầm trong khi quay lưng về phía tôi, vùi đầu vào đống áo choàng. Cuối cùng, anh ông ta quay lại với một chiếc khác và nói: “Bây giờ hãy thử cái này để xem cái này có vừa với con không. Ta biết con là cậu bé đã được dành hẳn cho một căn phòng đặc biệt trong Khu vực của các Lạt ma, vì vậy áo của con sẽ không bị đứa bé lớn hơn nào chiếm mất”.

Tôi thật vui mừng. Bây giờ tôi có tới hai chiếc áo choàng, một chiếc để dự phòng và một chiếc để sử dụng hàng ngày. Sư trưởng phục vụ nhìn tấm chăn của tôi với vẻ ghê tởm đáng kể, và nhận xét: “Ồ, Được, chúng ta sẽ đưa cho con một tấm chăn mới. Hãy đi với ta và mang cái đó theo”. Ông vội vã đi trước tôi vào kho chứa đồ chính, và gọi một nhà sư. Người này đến mang theo một cái thang. Nhà sư nhanh chóng leo lên thang và lấy một tấm chăn từ các kệ. Nó tương phản quá nhiều với chiếc áo choàng của tôi. Vì vậy, với một tiếng rên rỉ tuyệt đối đau khổ, Sư trưởng phục vụ tự mình quay về căn phòng bên, một lúc sau trở lại với đôi mắt nhắm nghiền và với một cái chăn chất liệu cao cấp. “Cầm lấy đi, chàng trai của ta, cầm lấy đi”, giọng ông ta run run. “Đây là một trong những chiếc chăn tốt hơn của chúng ta, được tình cờ làm từ nguồn hàng cao cấp. Hãy cầm lấy, và hãy nhớ khi con gặp Đức Trụ trì hay Đấng Tối cao, rằng ta đã đối xử tốt với con và trang bị cho con một cách hoành tráng”. Với tất cả sự nghiêm túc, tôi kể với bạn rằng Sư trưởng phục vụ đã khum tay che mắt trong khi rên rỉ, khi nghĩ đến việc chia tay với những đồ đạc có chất lượng cao hơn của mình.

 “Con mang ơn ngài rất nhiều, thưa Sư phụ đáng kính ,tôi trả lời. “Con chắc chắn là”, (ở đây khả năng ngoại giao của tôi đã phát huy tác dụng!) “là Sư phụ của con, Lạt ma Mingyar Dondup, sẽ rất nhanh chóng cảm nhận được lòng tốt của ngài khi ban cho con những thứ hàng này. Cảm ơn ngài!” Nói những lời đó ra khỏi lồng ngực, tôi quay lại và đi ra khỏi nhà kho. Lúc đó, một trong những nhà sư phục vụ bên ngoài nháy mắt với tôi một cách trịnh trọng. Tôi rất khó khăn để không bật cười thành tiếng.

Tôi quay trở lại, đi lên hành lang và vào khu vực dành cho các Lạt ma. Khi đang vội vã mang chiếc áo và cái chăn trên tay, tôi suýt đụng phải Thầy hướng dẫn của mình. “Ôi, thưa Sư Phụ!” Tôi kêu lên. “Con rất xin lỗi, con không thể nhìn thấy thầy”.

Thầy tôi cười và nói: “Lobsang, con trông giống như một người bán hàng lưu động. Trông con như thể vừa mới vượt núi từ Ấn Độ trở về. Con từng tình cờ trở thành một thương gia chưa?”. Tôi kể cho ông nghe về bất hạnh của tôi, về việc chiếc áo choàng của tôi đã bị rách như thế nào. Tôi cũng kể cho ông rằng Sư trưởng phục vụ đã nói với một cậu bé rằng ông ấy sẽ bắt tất cả đi chân trần. Thầy tôi dẫn đường vào phòng ông, và chúng tôi ngồi xuống. Ngay lập tức, bên trong bụng tôi thông báo lên nó đã không có thức ăn. Và may mắn thay, thầy tôi nghe thấy lời cảnh báo. Ông mỉm cười nói: “Vậy là con đã nhịn ăn sáng sao? Thế thì chúng ta cùng nhau ăn”. Cùng với đó, ông đưa tay ra và rung chiếc chuông bạc nhỏ của mình.

Với tsampa trước mặt, chúng tôi không nói chuyện gì cho đến khi dùng xong bữa ăn. Sau khi nhà sư phục vụ đã dọn sạch, Thầy hướng dẫn của tôi nói: “Vậy chắc là con đã gây ấn tượng với Sư trưởng phục vụ? Con chắc phải gây ấn tượng tốt để có được tới hai chiếc áo xịn và một cái chăn mới. Ta sẽ phải xem liệu ta có thể thi đua với con không!”

 “Sư phụ, con rất tò mò về quần áo, vì nếu Sư trưởng phục vụ nói rằng tất cả chúng ta nên đi lại mà không cần đến dép, vậy tại sao chúng ta không đi lại mà không có quần áo?” Thầy cười tôi, và nhận xét: “Rất nhiều năm trước đây, tất nhiên rồi, người ta không mặc quần áo. Và vì họ không mặc quần áo nên họ không cảm thấy thiếu thốn những quần áo đó. Vì vào thời đó, người ta có cơ thể có thể điều hòa trong phạm vi nhiệt độ rộng hơn nhiều. Nhưng giờ đây, qua việc sử dụng quần áo, chúng ta đã trở nên vô dụng, và chúng ta đã phá hỏng cơ chế điều chỉnh nhiệt của mình vì lạm dụng chúng”. Ông im lặng, trầm ngâm với vấn đề. Sau đó, ông cười và tiếp tục, “Nhưng con có thể tưởng tượng thử cảnh một số nhà sư già béo quanh đây đi lại mà không mặc gì không? Cảnh tượng sẽ khá đẹp đây! Nhưng câu chuyện về quần áo là một câu chuyện rất thú vị, bởi vì trong trường hợp đầu tiên, mọi người không mặc quần áo nào cả, và do đó không có sự phản bội vì mỗi người có thể nhìn thấy hào quang của người khác. Nhưng cuối cùng, các thủ lĩnh của các bộ lạc thời đó quyết định rằng họ cần một thứ gì đó để phân biệt họ với tư cách là thủ lĩnh, nên họ sử dụng một chùm lông vũ được đặt ở vị trí chiến lược, hoặc một vài lớp sơn làm từ các loại quả khác nhau. Nhưng rồi những người phụ nữ bước vào bức tranh; họ cũng muốn được trang trí, và họ đã sử dụng những bó lá thậm chí còn được đặt một cách chiến lược hơn. Thầy hướng dẫn của tôi cười với ý nghĩ về những người này, và tôi có thể tự mình tưởng tượng ra một bức tranh khá đẹp.

Ông  tiếp tục, “Khi nam và nữ tù trưởng của mỗi bộ tộc đều được trang điểm, thì người ở vị trí tiếp theo cũng phải có một số trang trí. Và do đó trở nên không thể phân biệt được với nam và nữ tù trưởng. Vì vậy nam và nữ tù trưởng phải có thêm nhiều đồ trang trí hơn nữa. Vấn đề diễn ra trong một thời gian khá dài, mỗi tù trưởng bổ sung thêm nhiều trang phục hơn. Cuối cùng, những người nữ tù trưởng mặc trang phục chắc chắn là khêu gợi, trang phục nhằm mục đích tiết lộ một nửa điều không nên che giấu – đừng hiểu lầm ta – khi mọi người có thể nhìn thấy hào quang, thì không thể có sự phản bội, không có chiến tranh, không có sự buôn bán hai mặt. Chỉ từ khi con người bắt đầu mặc quần áo, họ mới không còn nhìn thấy hào quang, và họ không còn khả năng thấu thị và thần giao cách cảm nữa”. Ông nhìn tôi chăm chú và nói: “Bây giờ con hãy chú ý vào lời ta, vì điều này có liên quan nhiều đến công việc mà con sẽ phải làm sau này”. Tôi gật đầu cho thấy rằng tôi đang thực sự chú ý.

Người hướng dẫn của tôi tiếp tục, “Một nhà thấu thị nhìn thấy thể vía của người khác phải có thể được nhìn vào cơ thể trần trụi, nếu anh ta muốn đưa ra kết quả khá chính xác về bất kỳ căn bệnh nào; và khi người ta mặc quần áo, hào quang của họ sẽ bị ô nhiễm”. Tôi kinh ngạc ngồi dậy, vì tôi không hiểu quần áo có thể làm ô nhiễm hào quang như thế nào, và tôi hỏi thế. Thầy tôi đã sớm trả lời: “Khi một người trần truồng, thì hào quang từ người đó tỏa ra là hào quang của người đó chứ không phải của bất cứ thứ gì khác. Bây giờ, nếu con khoác quần áo từ len bò Tây Tạng cho người ta, thì con sẽ chịu ảnh hưởng của hào quang từ con bò, của người xén lông bò, người chải len, và người dệt vải. Vì vậy, nếu con nghiên cứu về hào quang được nhìn xuyên qua bộ quần áo, con có thể sẽ mô tả về lịch sử từ bò Tây Tạng và chuỗi công việc mật thiết của nó, điều đó hoàn toàn không phải là điều con muốn”.

 “Nhưng, thưa Thầy”, tôi hỏi đầy lo lắng, “làm thế nào mà quần áo lại làm ô nhiễm hào quang được?” “Chà, ta vừa mới nói với con xong; mọi thứ tồn tại đều có trường ảnh hưởng, từ trường riêng của nó. Và nếu con nhìn qua ô cửa sổ kia, con có thể thấy ánh sáng ban ngày rực rỡ. Nhưng nếu con kéo tấm màn lụa dầu, con sẽ thấy ánh sáng ban ngày rực rỡ hiện đã bị biến đổi bởi ảnh hưởng của tấm màn lụa dầu. Nói cách khác, những gì con thực sự nhìn thấy là ánh sáng có màu hơi xanh, và điều đó hoàn toàn không giúp ích gì cho con trong việc mô tả ánh sáng mặt trời trông như thế nào”.

Ông mỉm cười khá gượng gạo với tôi khi tiếp tục: “Thực sự thì, điều đáng chú ý là mọi người không sẵn lòng chia tay với quần áo. Ta luôn có giả thuyết rằng mọi người có ký ức chủng tộc là nếu không mặc quần áo, người khác có thể nhìn thấy và đọc được hào quang của họ. Và rất nhiều người ngày nay có những suy nghĩ tội lỗi đến mức họ không dám để bất kỳ ai khác biết những gì họ đang nghĩ, và vì vậy họ giữ quần áo trên người, đó là dấu hiệu của tội lỗi ngụy trang dưới thuật ngữ sai về sự thuần khiết và ngây thơ”. Ông suy nghĩ một lúc rồi nhận xét: “Nhiều tôn giáo nói rằng Con người được tạo ra theo hình ảnh của Chúa, nhưng sau đó Con người xấu hổ về cơ thể của mình, điều này dường như ngụ ý rằng Con người xấu hổ về hình ảnh của Chúa. Tất cả đều rất khó hiểu về cách mọi người tiếp tục. Con sẽ thấy ở phương Tây, người ta phô bày lượng da thịt đáng ngạc nhiên ở một số vùng nhất định, nhưng họ lại che đi những vùng khác để sự chú ý tự động bị thu hút vào đó. Nói cách khác, Lobsang, nhiều phụ nữ mặc quần áo hoàn toàn khêu gợi; họ mặc những chiếc áo có đệm, còn được gọi là “lừa dối vui”, khi ta còn ở phương Tây. Tất cả những miếng lót này được thiết kế để khiến đàn ông nghĩ rằng phụ nữ có thứ mà cô ấy không có. Giống như cách chỉ vài năm trước, đàn ông phương Tây mặc những thứ bên trong quần mà họ gọi là “miếng lừa bịp”. Đó là, có một số miếng chất liệu đệm nhằm truyền đạt ấn tượng rằng một người đàn ông được ban tặng một cách hào phóng, và do đó sẽ là một đối tác rất nam tính. Thật không may, những người nhét nhiều đệm nhất lại là những người ít nam tính nhất! Và một khó khăn lớn khác cho quần áo, là nó ngăn cách không khí trong lành. Nếu mọi người mặc ít quần áo hơn và tắm không khí, thì sức khỏe của họ sẽ được cải thiện rất nhiều; sẽ có ít bệnh ung thư hơn, và rất ít bệnh lao. Vì khi một người quấn quanh mình bằng quần áo, không khí không thể lưu thông, và vi trùng sinh sôi nảy nở.”

Tôi nghĩ về điều đó, lúc đó tôi chỉ không hiểu được vi trùng sẽ sinh sôi như thế nào nếu một người mặc quần áo, và tôi bày tỏ quan điểm. Thầy tôi trả lời: “Lobsang! Nếu con nhìn xuống đất, con sẽ thấy rất nhiều côn trùng, nhưng nếu con nhấc một khúc gỗ mục hoặc di chuyển một tảng đá lớn, con sẽ tìm thấy đủ thứ bên dưới. Côn trùng, giun và nhiều loại sinh vật chỉ sinh sản và sống ở những nơi tối tăm và hẻo lánh, đều ở đó. Theo cách tương tự, cơ thể được bao phủ bởi vi khuẩn, bao phủ bởi mầm bệnh. Tác động của ánh sáng ngăn ngừa vi trùng và vi khuẩn sinh sôi, nó có tác dụng giữ cho cơ thể khỏe mạnh. Nhưng ngay khi một người để cho các khoảng không khí tù đọng tạm trú trong bóng tối của quần áo dày, người ta sẽ có đủ loại vi khuẩn sinh sôi.” Ông nhìn tôi khá nghiêm túc khi nói. “Sau này khi con là một bác sĩ điều trị cho bệnh nhân, con sẽ thấy rằng nếu băng vải để quá lâu không được chăm sóc, những con giòi sẽ hình thành bên dưới giống như khi một hòn đá nằm trên mặt đất, côn trùng sẽ tích tụ bên dưới nó. Nhưng đó là điều con sẽ giải quyết ở trong tương lai.”

Ông đứng dậy, vươn vai và nói, “Nhưng bây giờ chúng ta phải ra ngoài. Ta nghĩ ta sẽ cho con năm phút để chuẩn bị sẵn sàng, rồi đi xuống chuồng ngựa. Vì chúng ta sẽ cùng nhau thực hiện một chuyến hành trình.” Nói xong, ông ra hiệu cho tôi cầm lấy chiếc áo choàng và chăn của tôi để mang chúng về phòng. Tôi cúi đầu chào ông, thu dọn cái bọc của mình và quay qua cánh cửa thông tin. Tôi bận rộn chuẩn bị trong một lúc, rồi đi xuống chuồng ngựa theo yêu cầu.

Khi đi ra phía ngoài sân, tôi dừng lại vì kinh ngạc; có khá nhiều tốp kỵ binh đang tập hợp. Trong một lúc, tôi như bị treo lơ lửng trên tường, dậm chân và tự hỏi tất cả những điều này đang dành cho ai. Trong một thoáng, tôi nghĩ một vị Trụ trì nào đó chuẩn bị để di chuyển, nhưng sau đó Thầy hướng dẫn của tôi, Lạt ma Mingyar Dondup xuất hiện và nhìn nhanh xung quanh. Thấy tôi, ông ra hiệu. Tim tôi lắng xuống khi nhận ra rằng tất cả sự ồn ào này là dành cho chúng tôi.

Có một con ngựa cho Thầy tôi và một con nhỏ hơn cho tôi. Thêm vào đó có bốn vị sư phục vụ, mỗi người cưỡi trên một con ngựa, cùng với đó là bốn con ngựa nữa chất đầy những gói và kiện, nhưng chất đầy theo cách sao cho chúng không quá nặng để hai con trong số chúng có thể mang được bất cứ lúc nào, sử dụng thay thế nhằm không làm quá sức ngựa. Có nhiều tiếng thở nặng nhọc qua lỗ mũi, tiếng giậm chân và tiếng đuôi vung vẩy. Và tôi đi về phía trước, cố gắng hết sức cẩn thận để không ở phía sau bất kỳ con ngựa nào, vì một lần trước đó một con ngựa tinh nghịch dụ tôi theo sau nó, và sau đó nó đã cho một cú móng với một lực đáng kể vào giữa ngực tôi, hất tôi ngã lăn lộn trên mặt đất. Kể từ đó tôi học được cách cẩn thận.

 “Nào, chúng ta sẽ đi lên núi, Lobsang, trong hai hoặc ba ngày, và con sẽ đi theo với tư cách là phụ tá của ta!” Đôi mắt ông lấp lánh khi nói điều đó, thực ra đó là một giai đoạn khác trong quá trình huấn luyện của tôi. Chúng tôi cùng nhau đi đến chỗ ngựa của mình, và con ngựa được giao cho tôi quay đầu lại và thực sự nó rùng mình khi nhận ra tôi; mắt nó trợn tròn và hí lên phản đối một cách cay đắng. Tôi hoàn toàn đồng cảm với nó, bởi vì tôi không thích nó nhiều hơn nó thích tôi. Nhưng một nhà sư giữ ngựa nhanh chóng đưa hai bàn tay khum khum của mình và giúp tôi lên ngựa. Thầy tôi đã yên vị trên ngựa của mình và đang đợi. Vị sư giữ ngựa thì thầm, “Đây là một con ngựa êm, cậu không nên tạo bất kỳ rắc rối nào với con này, ngay cả cậu cũng vậy!”

Thầy hướng dẫn của tôi nhìn quanh ông, kiểm tra xem tôi có ở ngay phía sau ông không, và bốn vị tăng thị giả cũng đã vào vị trí, và bốn con ngựa thồ được buộc bằng những sợi dây dài. Sau đó, ông giơ tay và chúng tôi đi xuống núi. Những con ngựa được giao cho tôi cưỡi dường như có một điểm chung, bất cứ khi nào có một đoạn đặc biệt dốc, con vật khốn khổ sẽ chúi đầu xuống và tôi phải bám vào để ngăn không bị trượt qua cổ nó. Lần này tôi gác chân sau tai nó, nó thích điều đó chẳng hơn cách tôi thích nó cúi đầu xuống! Con đường bậc thang gồ ghề, có nhiều phương tiện giao thông, và tôi phải tập trung hết khả năng của mình để ngồi được trên ngựa. Nhưng tôi đã xoay xở được, chúng tôi đi vòng qua một khúc quanh và liếc nhìn lên, và nhìn ra phía ngoài công viên đến chỗ đã từng là, và giờ không còn là nhà của tôi nữa.

Chúng tôi đi xuống, xuống núi và rẽ trái vào Đường Lingkhor. Chúng tôi lê bước qua cây cầu trên sông và khi nhìn thấy Phái đoàn Trung Quốc, chúng tôi đột nhiên rẽ phải vào con đường dẫn đến Kashya Linga, và tôi tự hỏi tại sao một đoàn như vầy lại chỉ đi đến công viên nhỏ đó. Thầy hướng dẫn của tôi không cho tôi biết chúng tôi sẽ đi đâu ngoại trừ là “lên núi”, và vì có nhiều ngọn núi bao quanh Lhasa trong như một cái bát, nên đó hoàn toàn không phải là gợi ý về điểm đến của chúng tôi.

Đột nhiên tôi nhảy cẫng lên vì vui vẻ, đột ngột đến nỗi con ngựa khốn khổ của tôi lồng lên, tưởng rằng tôi đang tấn công nó hay gì đó. Tuy nhiên, tôi đã bám được và kéo dây cương chặt đến nỗi đầu nó bật ngửa ra sau; nhanh chóng khiến nó im lặng, và vì vậy tôi học được một bài học: hãy kìm chặt và chỗ ngồi của bạn sẽ an toàn, tôi hy vọng vậy! Chúng tôi tiếp tục đi đều đều và chẳng mấy chốc đã đến một con đường rộng lớn, nơi có một số thương nhân vừa xuống phà. Người hướng dẫn của tôi xuống ngựa, vị tu sĩ phục vụ lớn tuổi của ông cũng xuống ngựa và sải bước đến chỗ người lái đò. Cuộc trò chuyện diễn ra trong một lúc, sau đó nhà sư quay lại, nói: “Mọi thứ ổn rồi, thưa Lạt ma đáng kính, chúng ta đi ngay bây giờ.” Ngay lập tức có sự nhộn nhịp và hỗn loạn. Các nhà sư phục vụ xuống ngựa và tất cả tập trung đến những con ngựa thồ. Những gánh hàng được dỡ ra và khiêng vào thuyền của người lái đò. Sau đó, tất cả những con ngựa được buộc lại với nhau bằng dây dài, hai nhà sư phục vụ mỗi người lên một con ngựa và dắt chúng xuống sông. Tôi quan sát khi họ bắt đầu ra xa, các nhà sư quấn áo choàng quanh người, cao đến tận thắt lưng họ, và những con ngựa đều dũng cảm lao xuống nước rồi bơi sang bờ bên kia. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy Thầy tôi đã ở trong thuyền và ra hiệu cho tôi đi vào. Vì vậy, lần đầu tiên trong đời, tôi được lên một chiếc thuyền, với hai người phục vụ khác theo sau. Sau khi thì thầm với trợ lý của mình, người lái đò đẩy thuyền đi. Trong một khoảnh khắc, tôi có cảm giác chóng mặt vì con thuyền quay một vòng tròn.

Chiếc thuyền này được làm bằng da bò Tây Tạng, được khâu lại với nhau cẩn thận và không thấm nước. Sau đó, nó được thổi không khí phồng lên. Khi người và hàng hóa đã lên thuyền, người chèo thuyền chỉ cần quạt một cái dài, hoặc khuấy, và chèo chậm qua sông. Mỗi khi có cơn gió ngược, ông phải mất một thời gian dài, rất dài, nhưng ông luôn được bù đắp trên hành trình trở về vì sau đó chỉ là vấn đề dẫn hướng theo gió.

Tôi quá phấn khích vì muốn biết nhiều trong chuyến đi đầu tiên trên mặt nước. Tôi biết mình nếu nắm chặt mạn thuyền sẽ có nguy cơ những cái đinh sắc nhọn đâm xuyên qua các ngón tay. Trong mọi trường hợp, tôi sợ phải di chuyển vì mỗi lần tôi cố gắng di chuyển lại có thứ gì đó chùng xuống từ bên dưới. Gần như thể chúng tôi đang tựa trên hư không, hoàn toàn không giống như đang tựa trên một nền đá vững chắc không bị rung chuyển. Ngoài ra, nước khá đục và tôi đi đến kết luận rằng mình đã ăn quá nhiều, vì cảm giác nôn nao kỳ lạ ập đến trong bụng tôi, tôi rất sợ mình trở nên phát ốm trước mặt tất cả những người ở đó. Tuy nhiên, bằng cách nín thở trong khoảng thời gian hợp lý, tôi đã bảo toàn được danh dự của mình, và chẳng mấy chốc, con thuyền lướt vào một bãi cạn đầy sỏi, chúng tôi xuống thuyền.

Đoàn kỵ binh của chúng tôi tập hợp lại, Thầy hướng dẫn của tôi đi đầu và tôi đi sau ông nửa con ngựa, theo sau là bốn nhà sư phục vụ cưỡi ngựa theo hàng hai, và sau cùng là bốn con ngựa thồ. Thầy tôi nhìn quanh đảm bảo rằng mọi người đã sẵn sàng, rồi con ngựa của ông tiến về phía buổi sáng.

Chúng tôi ngồi đó trong khi những con ngựa chạy nước kiệu. Lúc nào chúng tôi cũng quay mặt về hướng Tây, hướng mà buổi sáng di chuyển, vì chúng tôi nói rằng mặt trời mọc ở hướng Đông và mang theo buổi sáng khi đi về hướng Tây. Chẳng mấy chốc, mặt trời đuổi kịp chúng tôi và ở trên đầu. Không có mây, những tia nắng mặt trời thực sự như thiêu đốt, nhưng khi chúng tôi đi vào vùng bóng râm của những tảng đá lớn, cái lạnh trở nên buốt giá vì ở độ cao của chúng tôi không có đủ lượng không khí để cân bằng giữa những tia nắng nóng và cái lạnh của những bóng râm. Chúng tôi đi tiếp có lẽ khoảng một giờ nữa, sau đó Thầy tôi đến một đoạn đường mòn mà dường như ông đã từng dùng làm nơi dừng chân. Tôi không thể nhận thấy bất kỳ tín hiệu nào, các nhà sư xuống ngựa và ngay lập tức bắt đầu đun nước, lấy phân yak khô mà chúng tôi dùng làm nhiên liệu, và đi đến một con suối gần đó trên núi để lấy nước. Trong khoảng nửa giờ, chúng tôi ngồi xuống dùng tsampa, tôi chắc chắn là người cảm thấy cần đến nó. Những con ngựa cũng được cho ăn, sau đó tất cả được đưa đến dòng suối trên núi để chúng uống nước.

Tôi ngồi dựa lưng vào một tảng đá, một tảng đá trông to bằng những tòa nhà của Cung điện Chakpori. Tôi nhìn từ vị trí cao đó, qua Thung lũng Lhasa; không khí hoàn toàn trong lành, không sương mù, không bụi bặm, và chúng tôi có thể nhìn thấy mọi thứ một cách hoàn toàn rõ ràng. Chúng tôi có thể thấy những người hành hương đi qua Cổng Tây, chúng tôi có thể thấy những người buôn bán, và chúng tôi có thể nhìn xa xa xuống con đường mòn và thấy người lái đò đang đưa thêm một đoàn hành khách khác qua Sông Hạnh phúc.

Chẳng mấy chốc đã đến lúc phải tiếp tục, những con ngựa lại được chất đồ lên và tất cả chúng tôi lên ngựa, sau đó cưỡi ngựa dọc theo con đường núi, ngày càng đi sâu hơn vào phía chân dãy Hy Mã Lạp Sơn. Chẳng mấy chốc, chúng tôi bỏ qua con đường mà cuối cùng sẽ dẫn đến Ấn Độ. Chúng tôi rẽ trái ở chỗ con đường, lần này nói đúng hơn là đường mòn, ngày càng trở nên dốc hơn, và từ đó tiến trình của chúng tôi trở nên chậm hơn rất nhiều. Phía trên chúng tôi, nằm trên một mỏm đá, chúng tôi có thể thấy một tu viện lạt ma nhỏ. Tôi nhìn rất thích thú vì nó là một nguồn mê hoặc đối với tôi, nó là một tu viện thuộc một Dòng hơi khác, một Dòng mà các nhà sư và lạt ma đều đã kết hôn và họ sống trong tòa nhà với gia đình của họ.

Chúng tôi cứ tiếp tục, hết giờ này qua giờ khác, chẳng mấy chốc đã lên ngang hàng với tu viện lạt ma Dòng khác này. Chúng tôi có thể thấy các nhà sư và nữ tu đi bộ cùng nhau, và tôi khá ngạc nhiên khi thấy các nữ tu cũng cạo đầu. Ở đây họ có khuôn mặt đen, lấp lánh, Thầy tôi thì thầm với tôi: “Ở đây bão cát nhiều nên họ đều đeo một cái khẩu trang mỡ dày để giữ da. Sau này chúng ta cũng phải đeo khẩu trang da.”

Thật là một điều may mắn khi con ngựa của tôi rất chắc chân, và biết nhiều về những con đường mòn trên núi hơn tôi, vì sự chú ý của tôi hoàn toàn dồn vào tu viện nhỏ đó. Tôi có thể nhìn thấy những đứa trẻ nhỏ chơi đùa. Tôi thực sự thắc mắc tại sao lại có một số nhà sư sống cuộc sống độc thân, còn những người khác lại kết hôn. Và tôi tự hỏi tại sao lại có sự chia rẽ như vậy giữa hai nhánh của cùng một tôn giáo. Các tăng ni chỉ ngước nhìn chúng tôi đi qua, rồi không chú ý đến chúng tôi nữa, ít chú ý đến chúng tôi hơn nếu chúng tôi là thương nhân.

Chúng tôi leo mãi, và phía trên chúng tôi, chúng tôi thấy một tòa nhà màu trắng và hoàng thổ, nằm trên cái mà lẽ ra tôi phải gọi là một mỏm đá hoàn toàn không thể tiếp cận được. Thầy tôi chỉ vào đó, “Đó là nơi chúng ta sẽ đến, Lobsang, đến ẩn thất đó. Chúng ta phải lên đó vào sáng mai, vì đường thực sự nguy hiểm, đêm nay chúng ta sẽ ngủ ở đây giữa những tảng đá.”

Chúng tôi đi tiếp, khoảng thêm một dặm nữa, rồi dừng lại giữa một cụm đá, những tảng đá lớn xếp lại trông giống như một cái hố lõm. Chúng tôi cưỡi ngựa giữa những tảng đá và sau đó tất cả xuống ngựa. Những con ngựa được buộc lại và cho ăn; chúng tôi dùng tsampa, và sau đó, màn đêm bao trùm lấy chúng tôi như kéo một bức màn. Tôi cuộn mình trong chăn và nhìn ra chỗ giữa hai tảng đá. Tôi có thể nhìn thấy nhiều tia sáng khác nhau từ Chakpori và từ Potala, mặt trăng đang tỏa sáng rất rực rỡ và Dòng sông Hạnh phúc có thể được đặt tên là Dòng sông Bạc vì nó tỏa sáng như một vệt bạc sáng, tinh khiết nhất. Đêm tĩnh lặng, không một ngọn gió, không một chuyển động, thậm chí không một tiếng chim kêu đêm. Những ngôi sao sáng lấp lánh vô số màu sắc từ phía trên. Tôi chợt ngủ thiếp đi.

Tôi đã có một đêm ngon giấc mà không bị gián đoạn vì các buổi lễ ở đền thờ, không bị gián đoạn vì bất cứ điều gì. Nhưng vào buổi sáng khi thức dậy, tôi cảm thấy mình như bị một đàn bò Tây Tạng giẫm đạp. Từng miếng xương nhức nhối, và tôi cảm thấy mình không thể ngồi xuống bất kỳ góc độ nào có thể thoải mái, rồi tôi nhớ ra con ngựa khốn khổ đó và hy vọng nó cũng đau nhức, mặc dù tôi rất nghi ngờ về điều đó. Chẳng mấy chốc, trại nhỏ của chúng tôi trở nên nhộn nhịp với các nhà sư phục vụ đang chuẩn bị tsampa. Tôi đi lang thang trong khi họ đang làm việc, và đứng nhìn ra Thung lũng Lhasa. Sau đó, tôi quay lại và nhìn lên ẩn thất cách đó một phần tư dặm phía trên. Trông nó thật kỳ lạ, nó làm tôi nhớ đến một trong những chiếc tổ chim được dán chặt vào bức tường của một ngôi nhà, mà người ta luôn mong đợi nó sẽ rơi xuống vỡ tan bất cứ lúc nào. Tôi không thể nhìn thấy bất kỳ con đường hay bất kỳ cách nào để đến được ẩn thất.

Tôi lang thang quay lại và ăn tsampa của mình, và lắng nghe mọi người nói chuyện. Ngay sau đó, khi chúng tôi ăn sáng xong, Thầy hướng dẫn của tôi nói: “Nào, Lobsang, chúng ta phải di chuyển. Ngựa và ba người thị giả ở lại đây, chúng ta và một thị giả đi lên đó.” Lòng tôi thắt lại khi nghĩ đến điều đó, làm thế nào tôi có thể đi bộ lên sườn núi? Tôi chắc chắn rằng nếu những con ngựa không thể đi theo cách đó thì tôi cũng không thể. Tuy nhiên, những sợi dây thừng được lấy ra từ một trong những con ngựa, và quấn quanh người của thị giả. Sau đó, tôi mang theo một túi mà tôi không biết đựng gì, còn Thầy tôi cầm một túi khác, trong khi người thị giả mang theo cái túi thứ ba khá cồng kềnh. Ba nhà sư bị bỏ lại phía sau trông rất hạnh phúc, vì họ sẽ có một khoảng thời gian riêng tư mà không có bất kỳ sự giám sát nào, không cần phải làm bất cứ điều gì ngoại trừ việc chăm sóc những con ngựa. Chúng tôi lên đường, lê bước giữa những tảng đá để tìm một chỗ đứng bấp bênh khi có thể. Chẳng mấy chốc, con đường ngày càng trở nên tệ hơn, và vị tăng thị giả dẫn đầu, cuối cùng ném một sợi dây có gắn hai viên đá ở đầu. Anh ta ném, thực hiện một cú giật nhanh, và những viên đá xoay quanh rồi giữ sợi dây lại, và anh ta kéo xem nó có chắc không. Sau đó, anh tự đu mình lên bằng sợi dây. Tiếp theo, giữ chặt một đầu dây để Thầy tôi và tôi có thể đi theo con đường nguy hiểm và chậm chạp này. Quá trình này được lặp đi lặp lại hết lần này đến lần khác.

Cuối cùng, sau một nỗ lực đặc biệt khó khăn, chúng tôi đã đến được một nền đá, có lẽ rộng ba mươi feet và rõ ràng đã được đục khoét bởi một số trận sụt lở lâu đời nào đó. May mắn thay, khi tôi đến được đó và lê mình qua bờ vực, đầu tiên phải bò bằng đầu gối và sau đó đứng trên chân, tôi hướng mắt sang bên phải và cách đó vài bước chân là căn ẩn thất.

Trong một lúc chúng tôi đứng đó, tất cả chúng tôi đều thở hổn hển để lấy lại hơi. Tôi bị mê hoặc với khung cảnh; Tôi có thể nhìn thấy Mái Vàng của Potala, tôi cũng có thể nhìn vào sân của Chakpori. Tôi có thể thấy rõ ràng là một lô thảo mộc mới vừa được chuyển đến, vì giống như một tổ ong bị xáo trộn, các nhà sư chạy tán loạn khắp mọi hướng. Cũng có nhiều xe cộ đi qua Cổng Tây. Nhưng rồi tôi thở dài, điều này không dành cho tôi, thay vào đó, tôi phải leo lên những ngọn núi ngớ ngẩn và gặp gỡ mọi người trong các ẩn thất, khi mà ai ngoài một tên ngốc sẽ sống trong một ẩn thất cơ chứ?

Bây giờ đã có dấu hiệu của hoạt động, vì từ ẩn thất có ba người đến gần. Một người đã rất, rất già và được đỡ bởi hai người trẻ hơn. Khi họ tiến về phía chúng tôi, chúng tôi lại nhặt hành lý của mình và tiến tới ẩn thất.

Chiếc áo Cà sa 13

Người dịch: TTQ.Dũng

Chương 13

Thật tuyệt khi được trở lại Chakpori, thật tuyệt khi được ở cùng những người mà tôi đã quen thuộc. Tại đây, các vị Thầy đã tận tuỵ, chuyên tâm đào tạo các lạt ma y khoa. Thầy hướng dẫn của tôi đã gợi ý rằng tôi nên tham gia các lớp học về thảo dược, giải phẫu học và y học, vì Chakpori là trung tâm giảng dạy các nội dung này.

Cùng với 25 người khác, những cậu bé bằng tôi và cả lớn tuổi hơn, và một hoặc hai nhà sư trẻ từ các lạt ma viện khác, tôi ngồi trên sàn của một trong những Giảng đường của chúng tôi; vị lạt ma giáo viên quan tâm đến công việc của mình, quan tâm đến việc dạy chúng tôi. “Nước!” ông nói. “Nước là chìa khóa để có sức khỏe tốt. Mọi người không uống đủ để cho cơ thể hoạt động bình thường. Khi một người ăn, sẽ có một mớ hỗn độn khó tiêu đi vào bên trong, không thể đi qua con đường dài xuyên qua ruột. Kết quả là một hệ thống bị tắc nghẽn, tiêu hóa kém và hoàn toàn không có khả năng thực hiện học tập và thực hành siêu hình học”. Ông dừng lại và nhìn xung quanh như thể thách thức chúng tôi nghĩ khác đi! “Thưa sư phụ”, một nhà sư trẻ đến từ một tu viện nhỏ hơn nói, “chắc chắn nếu chúng ta uống khi ăn, chúng ta sẽ làm loãng dịch vị của mình, hoặc người ta đã bảo con như thế”. Nhà sư trẻ đột ngột im lặng và liếc nhìn xung quanh, như thể đang bối rối trước sự táo bạo của anh ấy.

 “Một câu hỏi hay đấy!” Thầy lạt ma nói. “Nhiều người có ấn tượng đó, nhưng điều đó là sai! Cơ thể có khả năng tiết ra dịch tiêu hóa đậm đặc. Trên thực tế là, đặc đến mức trong những điều kiện nhất định, dịch tiêu hóa có thể bắt đầu tiêu hóa cả cơ thể!” Chúng tôi há hốc miệng vì kinh ngạc, và tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi khi nghĩ rằng mình đang ăn thịt chính mình. Giáo viên mỉm cười khi thấy sự huyên náo mà ông đã gây ra. Ông im lặng trong một lúc để toàn bộ chúng tôi bị tác động. “Loét dạ dày, kích ứng dạ dày; chúng được gây ra như thế nào?” ông hỏi, nhìn chằm chằm hết từ người này sang người khác trong đám chúng tôi, với hy vọng nhận được câu trả lời.

“Thưa thầy!” tôi trả lời to. “Khi một người bị lo lắng, anh ta bị loét giống như cách anh ta có thể bị đau đầu vậy!” Thầy mỉm cười với tôi và trả lời: “Nỗ lực tốt! Đúng vậy, khi một người lo lắng, dịch vị trong dạ dày của anh ta ngày càng trở nên đậm đặc hơn, cuối cùng thì chỗ yếu nhất của dạ dày sẽ bị tấn công, và các axit thường tiêu hóa thức ăn, sẽ ăn mòn phần yếu nhất rồi cuối cùng tạo ra cái lỗ. Những cơn đau nhói, khuấy động các thứ trong dạ dày sẽ dẫn đến sự cô đặc hơn nữa của dịch vị. Cuối cùng, các axit thấm qua lỗ mà chúng đã tạo ra rồi thấm vào giữa các lớp của dạ dày, gây ra cái mà chúng ta gọi là loét dạ dày. Việc cung cấp nước đầy đủ sẽ làm giảm đáng kể, và thậm chí có thể NGĂN NGỪA vị trí bị loét. Bài học là, khi bạn lo lắng, hãy uống nước để giảm nguy cơ bị loét!”

“Thưa thầy!” một thằng bé ngốc nghếch nói. “Con hy vọng mọi người không quá chú ý đến điều này; Con là một trong những người phải gánh nước lên núi, và công việc bây giờ đã đủ vất vả rồi”. Hầu hết mọi người không nghĩ đến những vấn đề của một quốc gia như Tây Tạng. Chúng tôi có rất nhiều nước, hầu hết đều nằm ở sai vị trí! Để đáp ứng nhu cầu của các tu viện lạt ma như Potala và Chakpori, các nhóm tu sĩ công nhân và các cậu bé phải tải những bình nước bằng da theo những con đường núi. Ngựa và bò Tây Tạng cũng được sử dụng để vận chuyển nước, rất cần thiết cho sự tồn tại của chúng tôi. Vô số các nhóm công nhân phải làm việc cực nhọc để giữ cho các thùng chứa nước được đầy, đặt ở những vị trí dễ tiếp cận. Chúng tôi không phải chỉ vặn vòi và có sẵn nguồn nước dồi dào, nước nóng hay nước lạnh. Nước của chúng tôi được cấp từ bể nước. Cát ở lòng sông rất mịn, cũng được lấy lên, sử dụng để làm sạch đồ dùng và cọ rửa sàn nhà. Nước quí giá! Chỗ giặt đồ của chúng tôi là ở mé sông. Chúng tôi xách quần áo tới sông, thay vì phải gánh sông lên núi.

Vị Thầy Lạt ma phớt lờ nhận xét ngớ ngẩn đó, và tiếp tục: “Căn bệnh tồi tệ nhất của loài người là”, ông dừng lại để tạo hiệu ứng kịch tính, trong khi đó chúng tôi nghĩ về bệnh dịch và ung thư. “Là TÁO BÓN! Táo bón gây ra nhiều bệnh tật nói chung hơn bất kỳ bệnh nào khác. Nó đặt nền móng cho những căn bệnh nghiêm trọng hơn. Làm cho người ta thấy uể oải, nóng nảy, và ốm yếu. Táo bón có thể CHỮA ĐƯỢC!” Một lần nữa ông dừng lại và nhìn quanh mình. “Không phải chữa bằng liều lượng lớn Cascara Sagrada, không phải bằng hàng lít dầu Thầu dầu; mà bằng cách uống đủ nước. Hãy xem xét khi chúng ta ăn. Chúng ta tiếp nhận thức ăn và điều đó phải tiến triển qua dạ dày và qua ruột của chúng ta. Ở phần phía sau, những sợi lông ngắn được gọi là “nhung mao”, chúng giống như những ống rỗng, hút chất dinh dưỡng từ thức ăn đang được tiêu hóa, và tiêu hóa chúng. Nếu thức ăn quá đầy bụng, quá “rắn” thì không thể vào nhung mao. Nó bị nêm chặt thành cục cứng. Ruột phải “quằn quại”, chúng ta có thể mô tả đó là nhu động, để đẩy thức ăn dọc theo ống tiêu hóa, tạo ra nhiều chỗ trống hơn. Nhưng nếu thức ăn bị RẮN, thì nhu động ruột chỉ gây đau và không di chuyển được. Vì vậy, nước rất cần thiết để làm mềm khối đó”.

Có một thực tế đáng buồn là tất cả sinh viên y khoa đều tưởng tượng rằng họ có tất cả các triệu chứng mà họ đang học. Tôi ấn vào bụng mình. Vâng! Tôi CHẮC CHẮN rằng bên trong mình là một khối cứng. Ta phải làm gì đó cho việc này, tôi nghĩ. “Thưa thầy!” tôi hỏi. “Thuốc nhuận tràng làm việc như thế nào?” Ánh mắt của Giáo viên hướng về phía tôi. Có nụ cười trong mắt ông. Tôi đoán rằng ông đã thấy hầu hết chúng tôi đều cảm giác mình bị có “Khối cứng”.

 “Một người phải sử dụng thuốc nhuận tràng là người đã thiếu nước trong cơ thể. Anh ta bị táo bón vì anh ta không có đủ chất lỏng để làm mềm các chất thải đã bị ảnh hưởng. PHẢI có nước, do đó, trước tiên, thuốc nhuận tràng làm cho cơ thể đưa nước qua đường nhung mao, để khối này mềm ra và trở nên dẻo, sau đó nhu động ruột được tăng cường. Cơn đau xảy ra khi các cục cứng dính vào các bề mặt bên trong, và cơ thể bị mất nước. Một người nên LUÔN LUÔN uống nhiều nước sau khi uống thuốc nhuận tràng”. Ông cười nói thêm: “Tất nhiên, vì người bạn gánh nước của chúng ta, hãy để tôi nói rằng những người bị đau nên nằm bên bờ sông, và uống thật nhiều nước!”

“Thưa thầy! Tại sao những người bị táo bón lại có làn da bị xấu, nổi bị mụn như vậy?” Một cậu bé có làn da RẤT tệ cất tiếng hỏi, và mặt cậu ta đỏ dữ dội khi mọi cái đầu ngoái về phía mình. Thầy giáo trả lời: “Chúng ta nên loại bỏ các sản phẩm thải của mình theo cách mà Thiên nhiên đã định sẵn. Nhưng nếu con người cản trở cách thức đó, thì chất thải sẽ đi vào máu, làm tắc nghẽn các mạch quan trọng, và cơ thể sẽ cố gắng loại bỏ chất thải qua lỗ chân lông trên da. Một lần nữa, việc không có đủ chất lỏng để đi qua các ống nhỏ nơi lỗ chân lông, sẽ dẫn đến tắc nghẽn và làm “bẩn da”. Uống nhiều nước, tập thể dục vừa phải, thì chúng ta sẽ không phải trả quá nhiều tiền cho Cascara Sagrada, siro Vả và dầu Thầu dầu.” Ông cười nói: “Chúng ta kết thúc chuyện này ở đây, để tất cả các bạn chạy ra ngoài và múc thật nhiều nước!” Ông vẫy tay ra hiệu cho phép, và khi đang bước ra cửa thì một người đưa tin xông vào.

 “Thưa Thầy, có cậu bé tên Rampa nào ở đây không, Tuesday Lobsang Rampa, có ở đây không ạ?” Thầy nhìn quanh và ngoắc một ngón tay ra hiệu cho tôi. “Con, Lobsang, lần này thì con đã làm gì vậy?” ông nhẹ nhàng hỏi. Tôi miễn cưỡng bước tới, cố gắng tập tễnh một cách thảm hại nhất, và tự hỏi còn rắc rối gì nữa đây. Người đưa tin nói với lạt ma: “Cậu bé này phải đến gặp Đức Trụ trì ngay lập tức. Tôi phải đưa anh ấy đi, tôi không biết vì sao.”

Ôi! Tôi nghĩ, chuyện gì có thể xảy ra vào lúc này nhỉ? Có thể ai đó đã nhìn thấy tôi rải tsampa lên các nhà sư chăng? Có ai ẫ nhìn thấy tôi bỏ muối vào trà của sử trưởng giúp việc chăng? Hoặc có lẽ…, tâm trí tôi lang thang một cách u ám trên đủ loại “tội lỗi” mà tôi biết là của mình. Điều gì sẽ xảy ra nếu đức Trụ trì biết MỘT SỐ hành vi phạm tội của tôi? Người đưa tin dẫn tôi đi dọc theo những hành lang lạnh lẽo, trống trải của tu việc Chakpori. Ở đây không sang trọng, không có rèm trang trí công phu như ở Potala. Chỉ là đủ chức năng. Tại một cánh cửa có hai giám thị đứng bảo vệ, người đưa tin dừng lại và nói nhỏ “Chờ đã!” trước khi đi vào. Tôi đứng bồn chồn, hết chuyển từ chân này lại sang chân khác, các giám thị nhìn tôi chằm chằm một cách lạnh lùng như thể tôi là một sinh vật thấp kém nào đó. Người đưa tin lại xuất hiện. “Vào đi!”, anh ra lệnh, đẩy tôi một cái.

Tôi miễn cưỡng bước vào, cánh cửa đã được đóng lại sau lưng. Bất giác dừng lại vì kinh ngạc. Không có gì nghiêm khắc ở đây cả! Đức Trụ trì, mặc lễ phục sang trọng nhất màu đỏ và vàng, ngồi trên một cái bục cao hơn mặt đất khoảng một mét. Bốn lạt ma đứng hầu cận ngài. Hoàn hồn lại sau cú sốc, tôi cúi chào theo cách đã được quy định một cách nhiệt thành đến nỗi các khớp của tôi kêu răng rắc; và cái bát và hộp bùa chú của tôi đồng loạt kêu leng keng. Đằng sau Đức Viện trưởng, một lạt ma ra hiệu cho tôi tiến lên, giơ tay khi tôi đến vị trí cần dừng lại.

Vị Trụ trì im lặng nhìn tôi, nhìn suốt chiều cao cơ thể tôi, quan sát chiếc áo choàng, đôi dép của tôi; và có lẽ để ý rằng đầu tôi đã được cạo rất kỹ. Ông quay sang một trong những Lạt ma ở đó, “À! Đây là cậu bé đó, phải không?”. “Vâng, thưa Đức ngài”, vị lạt ma trả lời. Lại cái nhìn chằm chằm đó, sự đánh giá có tính toán đó. “À. Ồ! Chàng trai của ta, con có phải là người đã cứu viện cho thầy Tengli không? Ùm!”. Vị lạt ma đã ra hiệu cho tôi trước đó mấp máy môi, và chỉ vào tôi. Tôi nói: “Con thật may mắn khi phát hiện ra, thưa Viện trưởng,” tôi trả lời với hy vọng là đủ khiêm tốn.

Lại là ánh mắt đó, soi xét tôi như thể tôi là một loại bọ đậu trên lá. Cuối cùng ông lên tiếng, “À, À! Đúng, Ồ! Con sẽ được khen ngợi chàng trai của ta. Ừm!!” Ông hướng ánh mắt đi nơi khác, và vị lạt ma phía sau ông ra hiệu cho tôi cúi chào và rời đi. Thế là, thêm ba lạy nữa, thận trọng lui về phía sau, với lời “cảm ơn” thần giao cách cảm gửi đến vị lạt ma đã hướng dẫn tôi bằng những tín hiệu rõ ràng đến thế. Cánh cửa va vào lưng tôi. Tôi mừng rỡ mò mẫm sau lưng để mở chốt cửa. Rồi nhẹ nhàng đi qua, và dựa vào tường thở ra một tiếng “phù!” nhẹ nhõm. Mắt tôi ngước lên trên, bắt gặp ánh mắt của một giám thị khổng lồ. “Nào? Ngươi đang ở Thiên đường sao? Đừng ngồi đó, cậu bé!” ông ấy hét vào tai tôi. Tôi ủ rũ kéo áo choàng lên và đi xuống hành lang trong khi hai giám thị nhìn tôi đầy ác ý. Ở đâu đó, một cánh cửa kêu cọt kẹt và một giọng nói vang lên, “DỪNG LẠI!”. “Trời ơi, lạy Phật, tôi đã làm gì thế?” Tôi dừng lại, tự hỏi mình trong tuyệt vọng, và quay lại để xem rốt cuộc là việc gì. Một lạt ma đang tiến về phía tôi và – thật tốt – ông ấy đang CƯỜI! Sau đó, tôi nhận ra ông ấy chính là vị lạt ma đã cho tôi những tín hiệu khi đứng phía sau lưng Đức Viện trưởng. “Con đã biểu hiện rất tốt, Lobsang”, ông thì thầm hài lòng. “Con đã làm mọi thứ đúng cách nên làm. Đây là một món quà cho con – Đức Viện trưởng cũng thích chúng đấy!”. Ông dúi vào tay tôi một gói đồ sộ dễ thương, vỗ nhẹ vào vai tôi rồi bước đi. Tôi đứng sững sờ, mân mê cái gói và đoán nội dung bên trong. Tôi ngước nhìn lên, và hai giám thị đang mỉm cười nhân từ với tôi, họ đã nghe những lời vừa rồi của vị Lạt ma. “Ồ!” Tôi vừa kêu vừa nhìn họ. Nụ cười của các giám thị thật khác thường khiến tôi sợ hãi. Không chần chừ gì nữa, tôi chạy nhanh nhất có thể ra khỏi hành lang đó.

 “Cậu được gì thế, Lobsang?” một giọng nhỏ cất lên. Tôi nhìn xung quanh và thấy một cậu bé vừa mới được nhận vào. Cậu ấy nhỏ hơn tôi, và gặp khó khăn trong việc ổn định cuộc sống. “Đồ ăn, tớ nghĩ thế!” Tôi trả lời. “À, chúng ta nếm thử đi, tớ đang nhớ về đồ ăn của mình,” cậu bé nói một cách đăm chiêu. Tôi nhìn thấy cậu có vẻ đói. Có một nhà kho ở phía bên cạnh; Tôi dẫn cậu ta vào và chúng tôi ngồi ở bức tường phía xa, đằng sau mấy bao tải lúa mạch. Tôi cẩn thận mở gói hàng và thấy bên trong là “Đồ ăn của Ấn Độ”. “Ồ!” cậu bé nói. “Tớ chưa bao giờ có được thức ăn như thế này!” Tôi đưa cho nó một trong những chiếc bánh màu hồng, cái có phủ lớp màu trắng bên trên. Thằng bé cắn, và đôi mắt nó ngày càng tròn hơn. Đột nhiên tôi chợt nhận ra chiếc bánh khác tôi đang cầm trên tay trái ĐÃ BIẾN MẤT! Một âm thanh phía sau làm tôi quay lại; có một con mèo… ăn bánh CỦA TÔI! Và đang tận hưởng! Với một tiếng thở dài cam chịu, tôi lại thò tay vào gói để lấy một chiếc bánh khác cho mình.

 “Grừ”, có tiếng kêu từ sau lưng tôi. Một bàn chân chạm vào cánh tay tôi. “Grừ? Meoo!” tiếng kêu lại vang lên, và khi tôi quay lại nhìn, chú mèo đã lấy chiếc bánh thứ hai của tôi và đang ăn. “Ồ! Bạn đúng là tên trộm KHỦNG KHIẾP!” Tôi cáu kỉnh thốt lên, rồi tôi nhớ ra những con mèo này dễ thương biết bao, chúng là bạn tôi như thế nào và chúng đã an ủi tôi như thế nào. “Tôi xin lỗi, Mèo bảo vệ đáng kính”, tôi nói một cách hối lỗi. “Bạn làm việc để kiếm sống, còn tôi thì không”. Tôi đặt chiếc bánh của mình xuống, và vòng tay ôm lấy con mèo đang kêu rừ rừ, rừ rừ. “Ồ!” cậu bé nói. “Chúng không cho chạm vào chúng. Cậu làm thế nào được vậy?” Cậu bé đưa tay ra và “vô tình” nhặt được một chiếc bánh ngọt khác. Tôi không có ý kiến gì, cậu ấy thư giãn và ngồi xuống để có thể ăn một cách thoải mái. Con mèo kêu gừ gừ và húc đầu vào tôi. Tôi đưa nửa cái bánh cho nó, nhưng nó đã ăn đủ rồi. Chú mèo thậm chí còn kêu gừ gừ to hơn và dụi một bên mặt vào cái bánh, làm chất xi rô sền sệt lan khắp bộ râu của chú. Hài lòng vì tôi hiểu cách cảm ơn của chú mèo, chú bỏ đi, nhảy đến bậu cửa sổ và ngồi đó tắm dưới ánh nắng ấm áp. Khi tôi quay lại không nhìn nó nữa, tôi thấy cậu bé nhỏ con đang nhặt chiếc bánh mà con mèo đã cọ vào, rồi nhét vào miệng.

 “Đằng ấy có tin vào Tôn giáo không?” Cậu bé nhỏ con hỏi. Tôi có tin vào Tôn giáo không nhỉ, tôi nghĩ. Thật là một câu hỏi thực sự đáng lưu ý. Tại đây, chúng tôi được đào tạo để trở thành các Lạt ma Y khoa và Tu sĩ Phật giáo, và tôi được hỏi rằng: “Bạn có tin vào Tôn giáo không?”. Thật là Điên rồ, tôi nghĩ, ĐIÊN RỒ. Sau đó, tôi nghĩ thêm về câu hỏi này. TÔI CÓ TIN VÀO TÔN GIÁO KHÔNG? Tôi đã tin điều gì đây? “Tớ không hề muốn đến nơi này”, cậu bé nói. “Nhưng họ đã đưa tớ đến. Tớ đã cầu nguyện với Thánh Mẫu Dolma; Tớ đã cầu nguyện rất nhiều để không bị đến, và tớ vẫn phải đến. Tớ đã cầu nguyện rằng mẹ tớ sẽ không chết, nhưng bà đã chết, và những Người xử lý xác đã đến mang xác bà trao cho lũ kền kền. Tớ chưa bao giờ được đáp lại lời cầu nguyện, phải không Lobsang?” Chúng tôi ngồi đó trong nhà kho, dựa lưng vào những bao lúa mạch. Trên bậu cửa sổ, con mèo cứ rửa, rửa và rửa. Nó liếm bàn chân trước, lau qua một bên mặt, liếm lại bàn chân trước, vuốt qua đỉnh đầu phía sau tai và lại vuốt xuống một bên mặt. Nó trông như bị thôi miên khi cứ ngồi và liếm và lau, liếm và lau, liếm và lau…

Lời cầu nguyện ư? Bây giờ thì tôi nghĩ về nó, cầu nguyện dường như cũng không có tác dụng với tôi! Vậy thì, nếu cầu nguyện không hiệu quả, tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện? Cậu bé nhỏ nhẹ nói: “Tớ đã đốt rất nhiều nén nhang, tớ lấy chúng từ chiếc hộp đặc biệt của Bà nội kính mến; nhưng những lời cầu nguyện không bao giờ thành công với tớ. Hãy nhìn tớ bây giờ, ở đây tại Chakpori này, được đào tạo để trở thành một thứ mà tớ không muốn trở thành. TẠI sao thế? Tại sao tớ phải đi tu khi tớ không có hứng thú với việc này?” Tôi mím môi, nhướng mày và chau mày giống như Đức Trụ trì đã làm với tôi mới đây. Sau đó, tôi kiểm tra cẩn thận cậu bé từ đầu đến chân. Cuối cùng tôi nói: “Nói cho bạn nè, chúng ta tạm thời bỏ qua vấn đề này. Mình sẽ suy nghĩ về nó, và cho bạn biết câu trả lời trong thời gian tới. Thầy của mình, Lạt ma Mingyar Dondup biết mọi thứ, và mình sẽ nhờ ngài xem xét cố vấn về vấn đề này”. Tôi quay lại và chồm lên, thấy gói đồ ăn của Ấn Độ, giờ đã bị tiêu thụ còn một nửa. Trong cơn bốc đồng, tôi gom lại thành một gói, tất nhiên là có cả thức ăn bên trong, rồi đẩy nó vào vòng tay của cậu bé nhỏ con đang sửng sốt. “Đây!” Tôi nói, “Giờ bạn có những thứ này, nó sẽ giúp bạn nghĩ về những thứ khác hơn là những vấn đề về tâm linh. Giờ bạn đi đi, vì tớ còn phải suy nghĩ!” Tôi nắm lấy khuỷu tay cậu bé và dẫn nó ra cửa, đẩy cậu bé ra ngoài. Thằng bé rất vui khi được rời đi, vì sợ rằng tôi đổi ý và muốn nó trả lại những món ăn Ấn Độ đó.

Không còn cậu bé nữa, tôi chuyển sang những vấn đề quan trọng hơn. Trên một chiếc bao tải, tôi nhìn thấy một đoạn dây rất đẹp. Tôi đi đến và cẩn thận gỡ nó ra khỏi cổ bao tải. Sau đó, tôi đi đến cửa sổ, tôi và con mèo có một trò chơi hay, nó đuổi theo đầu sợi dây, nhảy qua những chiếc bao tải, lặn ngụp giữa chúng, nói chung là rất vui. Cuối cùng chú mèo và tôi gần như mệt mỏi cùng lúc. Chú mèo bước ra, húc vào người tôi, rồi đứng bằng hai chân sau và hất đuôi thẳng lên trời, kêu lên: “Meoo!” Chú ta nhảy lên bậu cửa sổ rồi biến mất vào chuyến hành trình bí ẩn của mình. Tôi nhét đoạn dây vào trước áo choàng và lững thững đi ra khỏi cửa, dọc theo hành lang, cho đến khi tới được phòng mình.

Tôi đứng trước bức tranh quan trọng nhất một lúc. Đó là hình một người đàn ông, và người ta có thể nhìn thấy bên trong cơ thể. Đầu tiên là khí quản; bên trái khí quản là hình ảnh hai nhà sư đang bận quạt không khí vào phổi. Ở bên phải, hai nhà sư thổi không khí vào phía phổi bên phải, tôi quan sát thấy họ đang làm việc khá chăm chỉ. Tiếp sau là hình ảnh trái tim. Ở đây, các nhà sư bận rộn bơm máu, hay nói đúng hơn là chất lỏng vì người ta không thể nhận biết đó là máu. Xa hơn nữa là một khoang lớn, là dạ dày. Một nhà sư, rõ ràng là cấp cao, ngồi sau một cái bàn; và có năm nhà sư đang bận rộn mang những gói thức ăn vào. Vị sư cấp cao đang kiểm đếm lượng thức ăn được mang tới.

Xa hơn nữa, một nhóm nhà sư đang múc mật từ túi mật để làm loãng thức ăn và giúp tiêu hóa. Các nhà sư khác đang bận rộn với thứ rõ ràng là một nhà máy hóa chất, là gan, họ đang phân hủy nhiều chất khác nhau bằng các thùng axit. Tôi rất thích thú khi nhìn vào bức tranh này, vì tiếp sau đó mọi thứ đi vào nơi có dạng các cuộn và cuộn, đại diện cho ruột. Các nhà sư đưa nhiều chất khác nhau vào ruột. Xa hơn nữa là những quả thận, nơi đây các nhà sư phân tách các chất lỏng khác nhau, và kiểm tra đảm bảo chúng được đưa đi đúng hướng. Nhưng bên dưới bọng đái là cảnh tượng thú vị nhất. Có hai nhà sư đang ngồi đối diện nhau trên một đường ống, rõ ràng là họ đang điều khiển dòng chảy của chất lỏng. Sau đó, ánh mắt tôi quay trở lại khuôn mặt của nhân vật, và tôi nghĩ không có gì lạ khi anh ta trông rất buồn bã với toàn bộ những con người đang ở bên trong cơ thể anh ta, đang chọc ngoáy và làm những việc quan trọng nhất cho anh ta! Tôi đứng đó một lúc, trầm ngâm thích thú, với những tưởng tượng về hoạt động của những người đàn ông tí hon bên trong.

Cuối cùng, có tiếng gõ nhẹ trên cánh cửa thông tin và một lúc sau nó mở ra. Tôi quay lại thấy Thầy tôi, Lạt ma Mingyar Dondup, đang đứng đó. Ông mỉm cười tán thành khi thấy tôi đang nghiên cứu bức họa. “Thực sự đó là một bức họa rất cổ; nguyên bản được tạo ra bởi những người thợ thủ công vĩ đại của Trung Quốc. Bức nguyên bản có kích thước chính xác như người thật, và được làm bằng gỗ lạng từ các loại gỗ khác nhau. Ta đã xem được bản gốc, và thực sự nó trông sống động như thật”.

“Ta hiểu rằng con đã gây ấn tượng tốt với Tu Viện trưởng, Lobsang. Ngài ấy đã nói với ta ngay sau lúc đó, rằng ngài ấy nghĩ con có những tiềm năng đáng chú ý.” Ông nói thêm bằng một giọng khá châm biếm: “Ta có thể đảm bảo với ngài ấy rằng Đấng tối cao cũng có cùng quan điểm như vậy!”

Đầu óc tôi ong ong nghĩ về tôn giáo, nên tôi khiêm tốn nói: “Thưa Sư Phụ, con có thể hỏi Ngài một câu về một vấn đề khiến con rất băn khoăn không?”. “Chắc chắn là con có thể. Nếu ta có thể giúp con thì ta sẽ giúp. Điều gì làm phiền con vậy? Nhưng nào, chúng ta hãy chuyển đến phòng của ta, chỗ đó chúng ta có thể ngồi thoải mái và uống trà”. Ông quay đi và dẫn đường về phòng mình, sau khi liếc nhanh và nhận thấy số thức ăn ít ỏi của tôi đang cạn kiệt nhanh chóng. Trong phòng ông, ông nhanh chóng gọi người phục vụ, và trà được đem đặt trước mặt chúng tôi. Sau khi chúng tôi xong bữa ăn, Lạt ma mỉm cười với tôi và nói: “Chà, bây giờ thì việc rắc rối là gì đây? Hãy thoải mái và kể cho ta nghe tất cả về điều đó, vì con không cần phải tham dự buổi lễ tối. Ông ngồi trong tư thế hoa sen với hai tay đặt trên đùi. Tôi ngồi, hay đúng hơn là nằm nghiêng, và cố gắng sắp xếp lại những suy nghĩ của mình để có thể trình bày vấn đề một cách rõ ràng nhất có thể mà không bị “lúng túng”.

 “Thưa Thầy”, cuối cùng tôi nói, “con đang gặp rắc rối về vấn đề tôn giáo; Con không thấy được tác dụng của tôn giáo. Con đã cầu nguyện, và những người khác đã cầu nguyện, nhưng những lời cầu nguyện của chúng con không đạt được kết quả gì. Chúng con dường như đã cầu nguyện tới nơi hoang vu. Có vẻ như các vị thần không lắng nghe những lời cầu nguyện. Có vẻ như đây là thế giới của tôn giáo ảo ảnh, và lời cầu nguyện cũng là một ảo ảnh. Con cũng biết rằng nhiều người hành hương kiếm tìm sự giúp đỡ của các Lạt ma, để vấn đề của họ có thể được giải quyết. Nhưng con chưa bao giờ nghe nói về bất kỳ vấn đề nào được giải quyết. Cha con cũng vậy, khi con còn ở với cha!, đã thuê một thầy tu làm toàn thời gian, nhưng dường như điều đó không tốt lắm trong trường hợp ở nhà con. Thưa Sư phụ, ngài có thể nói cho con biết tôn giáo có ích lợi gì không?”

Thầy tôi im lặng một lúc, nhìn vào hai bàn tay mình đang đan vào nhau. Cuối cùng ông thở dài và nhìn thẳng vào tôi. “Lobsang à”, ông nói, “Tôn giáo thực sự là một điều rất cần thiết. Điều tuyệt đối cần thiết, tuyệt đối cần thiết là phải có một tôn giáo có thể áp đặt kỷ luật tinh thần lên những tín đồ của nó. Không có tôn giáo, con người còn tệ hơn cả thú dữ. Không có tôn giáo sẽ không có tiếng nói của lương tâm. Ta nói với con, rằng việc một người theo đạo Hindu, đạo Phật, đạo Thiên Chúa hay đạo Do Thái không thành vấn đề. Mọi người đều có máu đỏ, và đức tin mà họ đã theo về cơ bản là giống nhau. Ông dừng lại và nhìn tôi, cố gắng xác định xem tôi có thể hiểu được những gì ông đang nói hay không, hiểu hàm ý của ông là gì. Tôi gật đầu, và ông tiếp tục.

 “Ở đây trên Trái đất này, hầu hết mọi người đều giống như những đứa trẻ trong trường học, những đứa trẻ không bao giờ nhìn thấy Hiệu trưởng, những đứa trẻ không bao giờ nhìn thấy thế giới bên ngoài trường học. Hãy tưởng tượng rằng ngôi trường được bao bọc hoàn toàn bởi một bức tường cao; có một số giáo viên nhất định trong trường, nhưng các lớp học không bao giờ nhìn thấy Hiệu trưởng. Học sinh trong trường khi đó sẽ có cơ sở để nghĩ rằng không có Hiệu trưởng, nếu họ không đủ trí tuệ để nhìn ra rằng, có một thứ gì đó cao hơn cả các giáo viên bình thường. Khi những đứa trẻ vượt qua kỳ thi và có thể lên lớp cao hơn, thì chúng có thể di chuyển ra ngoài bức tường bao quanh trường, và có lẽ cuối cùng sẽ gặp được Hiệu trưởng và nhìn ra thế giới bên ngoài. Mọi người thường đòi hỏi bằng chứng, họ phải có bằng chứng về mọi thứ, họ phải có bằng chứng về Thượng đế. Và cách duy nhất để họ có được bằng chứng là có thể du hành qua cõi trung giới, có khả năng thấu thị. Bởi vì khi một người có thể du hành vượt ra ngoài giới hạn của lớp học được bao bọc trong bức tường này, người ta có thể nhìn thấy Sự thật vĩ đại hơn ở bên ngoài”. Một lần nữa, ông dừng lại và nhìn tôi khá lo lắng, để xem liệu tôi có theo được những lời giảng của ông một cách thỏa đáng hay không. Thực tế thì tôi hiểu, và tôi có thể thấy được đầy đủ ý nghĩa từ những gì ông đang nói.

 “Chúng ta hãy tưởng tượng rằng chúng ta có một lớp học, và chúng ta tin rằng Hiệu trưởng của chúng ta tên là Ai-Đó. Có một lớp học khác ở cạnh bên, và chúng ta có thể gặp những học sinh bên đó; họ tranh luận với chúng ta và nói rằng tên của Hiệu trưởng là một cái gì đó khác. Nhưng một lớp thứ ba, những người mà chúng ta cũng có thể gặp, xông vào khá thô lỗ và nói với chúng ta rằng tất cả chúng ta đều là những kẻ ngốc, vì không hề có Hiệu trưởng. Bởi vì nếu có thì chúng ta đã gặp hoặc nhìn thấy người ấy, nếu có thì sẽ không ai nghi ngờ về tên của người đó. Bây giờ thì, Lobsang à”, Thầy hướng dẫn của tôi mỉm cười: “con sẽ thấy rằng một lớp học có thể đầy những người theo đạo Hindu, họ gọi Hiệu trưởng của mình bằng một cái tên; lớp học kế bên có thể toàn những người theo đạo Cơ đốc, họ gọi Hiệu trưởng của mình bằng một cái tên khác. Nhưng khi đi sâu vào vấn đề, khi rút ra bản chất của mọi tôn giáo, chúng ta thấy mỗi tôn giáo đều có những đặc điểm chung, cơ bản. Nghĩa là có Thượng Đế, có Đấng Tối Cao. Chúng ta có thể thờ phượng Ngài theo nhiều cách khác nhau, nhưng miễn là chúng ta thờ phượng Ngài với niềm tin, thì đó mới là vấn đề”.

Cánh cửa mở ra và một nhà sư phục vụ mang trà mới vào. Thầy tôi cảm ơn, rót một ít để uống vì khát do nói nhiều. Và, à, tôi tự nhủ rằng tôi cũng phải uống một chút vì tôi đã khát do đã lắng nghe. Một lý do cũng tốt như ý kia!

 “Này Lobsang, giả sử tất cả các thầy tế lễ, tu sĩ và lạt ma tại Tu viện Trại Hoa Hồng không có ai chịu trách nhiệm về kỷ luật của họ; có bảy nghìn cư dân của tu viện đó, bảy nghìn người trong số họ. Giả sử không có kỷ luật, giả sử không có phần thưởng, không có hình phạt; giả sử mọi người ở đó có thể làm theo ý mình muốn mà không bị lương tâm cắn rứt. Sẽ sớm có tình trạng hỗn loạn, sẽ có những vụ giết người, bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Những người đó được giữ trật tự bằng kỷ luật, kỷ luật tinh thần cũng như thể chất. Nhưng điều khá cần thiết đối với tất cả các dân tộc trên thế giới, là phải có một tôn giáo. Người ta phải có kỷ luật tinh thần cũng như kỷ luật thể chất, bởi vì nếu chỉ có kỷ luật thể chất thôi, thì đó chỉ là quy tắc của vũ lực trong đó kẻ mạnh nhất sẽ chiến thắng. Nhưng nếu có một kỷ luật tinh thần, thì người ta có nhiều quy tắc của tình yêu hơn. Thế giới ngày nay rất cần quay về phía tôn giáo, không phải là một tôn giáo cụ thể nào, mà là bất kỳ tôn giáo nào, tôn giáo phù hợp nhất với tính cách của người có liên quan”.

Tôi ngồi đó, và tự hỏi về tất cả. Tôi nhận thấy ý nghĩa của kỷ luật, nhưng tôi tự hỏi tại sao những lời cầu nguyện của chúng tôi không bao giờ được trả lời. “Thưa Sư Phụ”, tôi hỏi, “điều đó rất tốt, nhưng nếu tôn giáo là một điều tốt cho chúng ta như vậy, tại sao những lời cầu nguyện của chúng ta không được hồi đáp? Con đã cầu nguyện rằng con sẽ không phải đến chỗ rác rưởi này… à, ờ… ý con là, tu viện này, nhưng bất chấp mọi lời cầu nguyện của con, con vẫn phải đến đây. Nếu tôn giáo là tốt thì tại sao con lại được gửi đến đây, tại sao những lời cầu nguyện của con không được đáp lại?”

 “Lobsang à, làm sao con biết rằng những lời cầu nguyện của con đã không được đáp lại? Con có quan niệm sai lầm về cầu nguyện. Nhiều người nghĩ rằng, họ chỉ cần chắp tay và cầu xin một vị Thần bí ẩn ban cho họ lợi thế hơn đồng loại. Người ta cầu về tài lộc. Đôi khi người ta cầu nguyện rằng kẻ thù sẽ được trao vào tay họ. Trong chiến tranh, các bên đối lập cầu nguyện cho chiến thắng, các bên đối lập nói rằng Thượng đế đứng về phía họ, và sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù. Con phải nhớ rằng khi một người cầu nguyện, người ta thực sự cầu nguyện cho chính mình. Thượng đế không phải là một Nhân vật vĩ đại ngồi ở cái bàn nào đó, lắng nghe những lời thỉnh cầu dưới hình thức cầu nguyện, và ban phát bất cứ thứ gì người ta yêu cầu”. Ông cười và tiếp tục: “hãy nghĩ đến việc con đến gặp Đức Tu viện trưởng, và nói với ngài rằng con đang cầu nguyện rằng ngài sẽ thả con ra khỏi tu viện, hoặc ngài sẽ cho con một số tiền lớn. Con có nghĩ rằng ngài ấy sẽ đáp ứng yêu cầu của con theo cách con muốn không? Nhiều khả năng ngài ấy sẽ trả lời yêu cầu của con theo cách mà con không muốn ngài ấy làm!” Điều ngày thật có ý nghĩa với tôi, nhưng dường như không có ý nghĩa gì nếu tiếp tục cầu nguyện mà không có ai ở đó để trả lời, hoặc ban cho những điều mà người ta yêu cầu, tôi trả lời theo ý như vậy.

 “Nhưng, ý tưởng mà con cầu nguyện, là ý tưởng hoàn toàn ích kỷ. Tất cả những gì con muốn mọi lúc, là cái gì đó chỉ cho chính mình. Con có nghĩ rằng con có thể cầu nguyện với một vị thần và yêu cầu ông ta gửi cho con một hộp quả óc chó ngâm? Con có nghĩ rằng con có thể cầu nguyện, và có một gói kẹo Ấn Độ tuyệt vời được chuyển đến tay con không? Lời cầu nguyện nên vì lợi ích của người khác. Cầu nguyện phải tạ ơn Thượng đế. Lời cầu nguyện nên bao gồm một tuyên bố về những gì con muốn làm cho người khác, không phải cho chính mình. Khi con cầu nguyện, con tạo ra một sức mạnh từ suy nghĩ của mình. Và nếu có thể hoặc thuận tiện, con nên cầu nguyện lớn tiếng vì điều đó tiếp thêm sức mạnh cho những suy nghĩ. Nhưng con nên chắc chắn rằng những lời cầu nguyện của con là không ích kỷ, con nên chắc chắn rằng những lời cầu nguyện của con không trái với quy luật tự nhiên”. Tôi gật gật đầu đồng ý với tất cả những điều đó, bởi vì có vẻ như những lời cầu nguyện đã không được tốt cho lắm.

Thầy hướng dẫn của tôi mỉm cười trước sự rõ ràng đang thiếu chú ý của tôi, và ông tiếp tục, “Đúng, ta biết con đang nghĩ gì, ta biết con nghĩ rằng cầu nguyện chỉ là một sự lãng phí thời gian. Nhưng giả sử một người vừa mới chết, hoặc đã chết được vài ngày, và lời cầu nguyện của con có thể được đáp lại. Giả sử con cầu nguyện cho người đó sống lại. Con có nghĩ rằng thật tốt khi làm sống lại một người đã chết một thời gian chăng? Mọi người cầu nguyện rằng Thượng đế sẽ giáng xuống một người nào đó ngay lập tức và làm trái ý người đang cầu nguyện. Con nghĩ xem có hợp lý không khi mong đợi rằng một vị thần sẽ ra tay giết người chỉ vì một kẻ hoang dã và ngoan cố nào đó đã cầu nguyện để đạt được điều đó?”

 “Nhưng mà, thưa Sư Phụ khả kính, tất cả các lạt ma đều đồng thanh cầu nguyện trong các đền thờ, và họ cầu cho nhiều điều khác nhau. Vậy thì mục đích của việc đó là gì?”

 “Các Lạt ma đồng thanh cầu nguyện trong các ngôi đền với những điều đặc biệt trong tâm trí. Họ cầu nguyện, nói cách khác, họ định hướng suy nghĩ của mình, để họ có thể giúp đỡ những người gặp nạn. Họ cầu nguyện rằng những người mỏi mệt có thể đến để được hỗ trợ, hỗ trợ thần giao cách cảm. Họ cầu nguyện rằng những hồn ma lang thang bị lạc trong vùng hoang dã bên ngoài cuộc đời này, sẽ đến để họ có thể được hướng dẫn, vì nếu một người chết mà không biết gì về phía bên kia cái chết, người đó có thể bị lạc trong vũng lầy vô minh. Vì vậy, các lạt ma cầu nguyện, phát ra những suy nghĩ thần giao cách cảm, để những người cần giúp đỡ có thể đến và được giúp đỡ”. Ông nghiêm nghị nhìn tôi và nói thêm: “Các Lạt ma không cầu nguyện cho sự thăng tiến của chính họ, họ không cầu nguyện rằng họ sẽ được thăng tiến. Họ không cầu nguyện rằng có Thượng đế nào đó, người hơi khó tính, sẽ rơi từ mái nhà xuống hay gì đó. Họ cầu nguyện chỉ để giúp đỡ người khác”.

Suy nghĩ của tôi đã trở nên hơi tan ra, bởi vì tôi luôn có suy nghĩ rằng một vị Thượng đế, hoặc Đức Mẹ Dolma, sẽ có thể đáp lại lời cầu nguyện nếu nó được đọc với đủ sự nhiệt thành. Ví dụ, tôi không muốn gia nhập vào một tu viện, và tôi đã cầu nguyện và cầu nguyện cho đến khi giọng tôi gần như lạc đi. Nhưng cho dù tôi đã cầu nguyện bao nhiêu, tôi vẫn phải đến tu viện. Có vẻ như cầu nguyện chỉ là một thứ gì đó để giúp ích cho người khác.

 “Ta hiểu chính xác suy nghĩ của con, và ta không hoàn toàn đồng ý với quan điểm của con về vấn đề này”, Thầy tôi nhận xét. “Nếu một người trở nên tâm linh, thì người đó phải làm cho người khác điều mà lẽ ra anh ta muốn làm cho mình. Con phải cầu nguyện rằng con có thể có sức mạnh và trí tuệ để mang tới sự giúp đỡ, hoặc sức mạnh và trí tuệ cho người khác. Con không nên cầu nguyện cho lợi ích cá nhân của mình vì điều đó thật lãng phí và vô ích”. “Vậy thì”, tôi hỏi, “có phải tôn giáo chỉ đơn thuần là điều gì đó mà chúng ta phải làm cho người khác?”

 “Không hề, Lobsang à. Một tôn giáo là một cái gì đó mà chúng ta SỐNG. Đó là một tiêu chuẩn ứng xử mà chúng ta sẵn sàng áp đặt lên chính mình, để Bản ngã của chúng ta có thể được thanh lọc và củng cố. Bằng cách giữ những suy nghĩ trong sạch, chúng ta loại bỏ những suy nghĩ không trong sạch, chúng ta củng cố điều chúng ta quay trở về khi rời khỏi cơ thể. Khi con thành thạo hơn trong việc du hành bằng thể vía, con sẽ có thể tự mình nhìn thấy sự thật. Với hiện tại, trong vài tuần tiếp theo, con phải chấp nhận những lời của ta. Tôn giáo là rất thực tế, tôn giáo là rất cần thiết. Nếu con cầu nguyện và lời cầu nguyện của con không được đáp lại như con nghĩ, thì có thể lời cầu nguyện của con đã được đáp lại rồi. Bởi vì trước khi đến Trái đất này, chúng ta đã lên kế hoạch rõ ràng về những thuận lợi và khó khăn mà chúng ta sẽ gặp trên Trái đất. Chúng ta đã lên kế hoạch cho cuộc sống của mình trên Trái đất (từ trước khi chúng ta đến đây) giống như một sinh viên trong một trường đại học đã lên kế hoạch cho các khóa học của mình, để khi kết thúc những nghiên cứu đó, anh ta có thể trở thành cái này, cái kia hoặc cái gì đó khác, là cái mà anh ta đã được đào tạo”.

 “Thưa Thầy, thầy có nghĩ rằng bất kỳ tôn giáo nào cao hơn tôn giáo khác không?” Tôi hỏi khá rụt rè. “Không có tôn giáo nào tốt hơn so với người tuyên bố đi theo tôn giáo đó. Ở đây chúng ta có các nhà sư Phật giáo; một số nhà sư Phật giáo là những người sống rất tốt, những người khác thì lại không tốt lắm. Tôn giáo là của riêng mỗi người, mỗi người có cách tiếp cận tôn giáo khác nhau, mỗi người nhìn nhận những điều khác nhau trong tôn giáo của mình. Không thành vấn đề nếu một người theo Phật giáo, Ấn Độ giáo, Do Thái hay Cơ đốc giáo. Tất cả quan trọng là người đó nên thực hành tôn giáo của mình với niềm tin tốt nhất và khả năng tốt nhất của mình”.

 “Thưa Thầy”, tôi hỏi lại, “có đúng không khi một người thay đổi tôn giáo của mình, một Phật tử trở thành một Cơ đốc nhân, hay một Cơ đốc nhân trở thành một Phật tử, như vậy có được không?”. “Ý kiến cá nhân của ta là, Lobsang à, là ngoại trừ những trường hợp rất bất thường, một người không nên thay đổi tôn giáo của mình. Nếu một người sinh ra trong niềm tin Kitô giáo và sống ở thế giới phương Tây, thì người đó nên giữ đức tin Kitô giáo; bởi vì một người hấp thụ niềm tin tôn giáo như một người hấp thụ những âm thanh đầu tiên về ngôn ngữ của mình; và điều thường xảy ra là nếu một người là một Cơ đốc nhân đột nhiên trở thành người theo đạo Hindu hoặc đạo Phật, rồi một số yếu tố di truyền, một số điều kiện bẩm sinh sẽ có xu hướng làm suy yếu sự chấp nhận của người đó đối với đức tin mới. Và thông thường tất cả để bù đắp cho điều đó, người ta sẽ cuồng nhiệt ủng hộ tôn giáo mới, trong khi lại đồng thời có tất cả các loại nghi ngờ và xung đột chưa được giải quyết ở bên dưới bề mặt. Kết quả hiếm khi được thỏa đáng. Lời khuyên của riêng ta là khi một người được sinh ra, anh ta đã chấp nhận một niềm tin tôn giáo, và do đó anh ta nên giữ niềm tin đó”.

 “Umm!” Tôi trầm ngâm. “Sau đó thì, có vẻ như những ý tưởng của con về tôn giáo đã trở lại bình thường. Dường như người ta phải cho đi, và không đòi hỏi bất cứ điều gì. Thay vào đó, người ta phải hy vọng rằng ai đó sẽ cầu xin thay cho mình phải không thầy?”.

 “Người ta có thể cầu xin sự hiểu biết, người ta có thể cầu xin trong lời cầu nguyện rằng người ta sẽ có thể giúp đỡ người khác. Bởi vì thông qua việc giúp đỡ người khác, người ta học được chính mình; khi dạy người khác, người ta học được chính mình; khi cứu người khác, người ta tự cứu mình. Người ta phải cho đi trước khi họ có thể nhận. Người ta phải cho đi chính mình, cho đi lòng trắc ẩn của mình, lòng thương xót của mình. Cho đến khi một người có thể cho đi chính mình, người ta không thể nhận từ người khác. Người ta không thể có được lòng thương xót nếu không bày tỏ lòng thương xót trước. Một người không thể có được sự hiểu biết mà không có sự hiểu biết trước về những vấn đề của người khác. Tôn giáo là một vấn đề rất lớn, Lobsang ạ, quá lớn để có thể giải quyết chỉ trong một cuộc nói chuyện ngắn như thế này. Nhưng hãy nghĩ về nó. Hãy nghĩ xem con có thể làm gì cho người khác, nghĩ xem con có thể mang lại niềm vui và sự thăng tiến về mặt tinh thần cho người khác như thế nào. Và để ta hỏi con điều này, Lobsang, con đã có công cứu sống một nhà sư già nghèo bị tai nạn. Nếu con đối mặt với nó một cách thẳng thắn, con sẽ thấy rằng con có được niềm vui và sự hài lòng cao độ từ hành động đó. Có phải vậy không?”

Tôi nghĩ đến điều đó, và vâng, điều đó hoàn toàn đúng, tôi đã rất hài lòng khi đi xuống đó để theo dõi chú mèo đáng kính, và sau đó giúp đỡ ông già. “Dạ, thưa Thầy, Thầy nói đúng, con đã rất hài lòng”, cuối cùng tôi trả lời.

Bóng chiều buông xuống, và màn đêm màu tím đang dần trải rộng khắp thung lũng của chúng tôi. Ở Lhasa xa xôi, ánh đèn bắt đầu lấp lánh và mọi người bắt đầu di chuyển phía sau tấm rèm lụa dầu của họ. Ở đâu đó bên dưới cửa sổ của chúng tôi, một con mèo kêu lên một tiếng và được đáp lại bằng giọng của một con mèo khác gần đó. Thầy hướng dẫn của tôi đứng dậy và vươn vai. Ông trông có vẻ cứng đơ. Khi tôi lồm cồm đứng dậy, tôi suýt ngã sấp mặt vì chúng tôi đã ngồi nói chuyện lâu hơn tôi nghĩ. Và vâng, tôi cũng cứng đơ. Chúng tôi cùng nhau nhìn ra ngoài cửa sổ một lúc, sau đó thầy tôi nói: “Nên có một đêm ngon giấc vì, ai biết được?, có thể chúng ta sẽ bận rộn vào ngày mai. Chúc con ngủ ngon, Lobsang, chúc ngủ ngon”.

 “Thưa Thầy”, tôi nói, “cảm ơn Thầy đã dành thời gian và công sức giải thích điều này cho con. Con chậm chạp và con cho rằng đầu óc con cũng vậy, nhưng con đang bắt đầu hiểu được một chút. Cảm ơn thầy. Chúc thầy ngủ ngon!”

Tôi cúi đầu trước ông và quay lại, bước về chỗ cánh cửa thông tin. “Này Lobsang”, Thầy gọi tôi. Tôi quay lại nhìn thầy. “Đức Trụ trì thực sự hài lòng với con, và đó là một vấn đề nên được ghi nhận. Đức Trụ trì là một người khắc khổ, nghiêm khắc. Con đã làm tốt lắm. Chúc ngủ ngon”.

 “Chúc thầy ngủ ngon”, tôi nói lại khi quay về phòng. Tôi nhanh chóng chuẩn bị rất đơn giản cho giấc ngủ buổi tối. Rồi tôi nằm xuống, không phải để ngủ ngay mà để nghĩ về tất cả những điều tôi đã được chỉ bảo. Tôi nghĩ, đúng vậy, đó là sự thật, sự tuân thủ đúng đắn về tôn giáo của một người có thể đem đến kỷ luật tâm tinh đầy đủ và xuất sắc nhất.

Chiếc áo Cà sa 12

Người dịch: Dũng.TTQ

Chương 12

Căn phòng của tôi là một căn phòng dễ chịu, nó nhỏ nhưng vẫn đủ rộng theo ý tôi. Tôi thực sự hài lòng khi nhận thấy rằng mình có hai chiếc bàn thấp, và trên một trong hai chiếc bàn thấp đó có khá nhiều tạp chí và báo. Trên chiếc bàn kia, có một số món rất ngon bày sẵn cho tôi, những món ngọt ngào mà tôi hết lòng tán thành. Khi tôi bước vào, một nhà sư phục vụ mỉm cười với tôi và nói: “Các vị thần may mắn chắc chắn đã mỉm cười với cậu, Lobsang à. Cậu ở ngay cạnh phòng của Đại Đức Lạt ma Mingyar”. Tôi biết điều đó, anh ấy nói với tôi những điều tôi đã biết, nhưng sau đó anh nói tiếp: “Đây là cửa liên lạc; cậu phải nhớ đừng bao giờ bước vào cánh cửa đó mà không có sự cho phép từ Thầy hướng dẫn của cậu, bởi vì ông ấy có thể đang thiền định sâu. Bây giờ cậu không thể gặp Thầy trong một thời gian ngắn, vì vậy tôi khuyên cậu nên tới chỗ thức ăn kia”. Nói xong anh ta quay đi và rời khỏi. Phòng của tôi! Nghe thật hay. Thật là tuyệt vời khi có một căn phòng của riêng mình, sau khi phải ngủ nơi công cộng với rất nhiều thằng bé khác.

Tôi băng ngang tới cái bàn, cúi xuống và xem xét cẩn thận tất cả những thứ tốt đẹp đang được trưng bày ở đó. Sau một hồi phân vân điên cuồng, tôi quyết định mình sẽ lấy món gì, một thứ gì đó màu hồng với lớp bụi trắng bên trên. Tôi cầm nó bằng tay phải, và sau đó tôi lấy thêm một chiếc khác bằng tay trái, rồi đi đến cửa sổ để xem mình đang ở đâu trong tòa nhà.

Tôi tựa tay vào phiến đá của khung cửa sổ và thò đầu ra ngoài, lẩm bẩm tiếc nuối khi lỡ làm rơi một chiếc bánh Ấn Độ của mình trong lúc đó. Tôi vội vàng ngấu nghiến miếng còn lại kẻo nó cũng chịu chung số phận, rồi tôi quay sang quan sát phong cảnh.

Ở đây, tôi ở cực Đông Nam của tòa nhà, tôi được căn phòng cuối cùng ngay góc của tòa nhà phụ. Tôi có thể nhìn thấy Công viên Châu báu – công viên Norbu Linga. Lúc này có không ít lạt ma đang ở đó, hình như bọn họ đang tranh luận, thể hiện khá nhiều động tác. Trong vài khoảnh khắc nhàn rỗi này, tôi quan sát họ; họ khá vui vẻ, một người đang tạo tư thế trên mặt đất còn người kia đang tuyên bố với anh ta, sau đó họ đổi chỗ cho nhau. Ồ! Vâng, tôi biết họ đang làm gì, họ đang tập luyện cho các cuộc tranh luận công khai, vì chính Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ tham gia vào một cuộc tranh luận công khai. Hài lòng vì tôi đã không bỏ lỡ bất cứ điều gì mà tôi nên biết, tôi chuyển sang những thứ khác.

Một vài người hành hương đang lang thang trên con đường Lingkhor, thăm dò như thể họ mong tìm thấy vàng dưới mỗi bụi cây hay dưới mỗi viên đá. Họ là một tập hợp hỗn tạp, một số là những người hành hương chính thống, thực sự chân thành; những người khác, như tôi có thể nói mà không cần đắn đo nhiều, là gián điệp. Các gián điệp của Nga đang theo dõi người Trung Quốc và chúng tôi, và các gián điệp Trung Quốc đang theo dõi người Nga và chúng tôi. Tôi nghĩ rằng chừng nào họ còn do thám lẫn nhau thì họ có thể để chúng tôi yên! Ngay phía dưới cửa sổ của tôi là một đầm lầy có một nhánh sông nhỏ chảy qua và đổ vào sông Hạnh phúc. Có một cây cầu bắc qua con sông dẫn đến đường Lingkhor. Tôi thích thú ngắm vì có một nhóm nhỏ những thằng bé thành thị đang ở đó. Bọn Đầu đen, chúng tôi gọi họ như vậy, vì họ không cạo trọc đầu như các tu sĩ chúng tôi. Chúng đang chơi đùa trên cây cầu, ném những mảnh gỗ nhỏ qua rồi lao qua phía bên kia để xem chúng nổi lên trở lại. Một thằng bé bị mất thăng bằng mặc dù có sự trợ giúp từ một trong những bạn đồng hành, và nó vượt lên, lao đầu xuống nước. Tuy nhiên, không nghiêm trọng lắm, nó cố gắng lê mình lên bờ, người phủ đầy lớp bùn đặc biệt dính, mà tôi cũng đã phải trả giá tương tự khi ở khúc sông đó. Sau đó, tất cả các thằng bé lao xuống bờ sông và giúp nó tắm rửa sạch sẽ. Vì chúng biết cha mẹ sẽ nói gì với mỗi đứa khi quay trở lại Thành phố Lhasa, mà để thằng bé đó trong tình trạng kinh khủng như vậy.

Xa hơn về phía Đông, người lái đò vẫn miệt mài công việc, đưa đò qua sông, với hy vọng có thể moi thêm được ít tiền từ hành khách. Đây là một điều khiến tôi thực sự quan tâm, bởi vì lúc đó tôi chưa bao giờ ngồi thuyền trên mặt nước, và vào thời điểm đó, đó thực sự là đỉnh cao mong muốn của tôi.

Xa hơn một chút nữa, dọc theo tuyến phà là một công viên nhỏ khác, Kashya Linga, ở trên con đường dẫn đến Phái bộ Trung Quốc. Tôi thực sự có thể nhìn thấy những bức tường của Phái bộ Trung Quốc từ phòng của mình, và tôi có thể nhìn xuống khu vườn mặc dù nó được che chắn bởi cây cối. Những cậu bé chúng tôi luôn nghĩ rằng những hành động tàn bạo khủng khiếp đang diễn ra ở Phái bộ Trung Quốc; và, ai mà biết được? Biết đâu chúng tôi đúng!

Xa hơn về phía Đông là Khati Linga, một công viên rất dễ chịu nhưng hơi ẩm ướt, nằm trên vùng đầm lầy. Xa hơn nữa tôi có thể nhìn thấy là Cầu Ngọc Lam, cảnh tượng đó làm tôi thích thú. Tôi thích thú khi quan sát mọi người bước vào khu có mái che, sau đó lại thấy họ xuất hiện ở đầu bên kia.

Bên ngoài Cầu Ngọc Lam, tôi có thể nhìn thấy Thành phố Lhasa, Tòa thị chính, và dĩ nhiên, những cái mái bằng vàng của Jo Kang, Tu viện của Lhasa có lẽ là tòa nhà cổ nhất ở đất nước chúng tôi. Xa hơn nữa là những dãy núi và những ẩn thất nằm rải rác, và vô số tu viện lạt ma khác. Đúng, tôi rất hài lòng với căn phòng của mình, và rồi tôi chợt nhận ra rằng mình không thể nhìn thấy điện Potala. Đồng thời, tôi nảy ra ý nghĩ rằng các quan chức cấp cao của Potala cũng sẽ không thể nhìn thấy tôi. Vì vậy, nếu tôi đánh rơi những viên sỏi, hoặc những cục tsampa cho những người hành hương nhẹ dạ cả tin, thì sẽ không ai nhìn thấy tôi, và những người hành hương sẽ đổ lỗi cho lũ chim!

Ở Tây Tạng, chúng tôi không có giường, chúng tôi ngủ trên sàn. Hầu hết chúng tôi không có đệm hay bất cứ thứ gì khác trên sàn nhà. Chúng tôi chỉ quấn mình trong chăn và nằm xuống, có lẽ dùng áo choàng đểvlàm gối. Nhưng giờ chưa đến lúc nghỉ ngơi. Thay vào đó, tôi ngồi quay lưng về phía cửa sổ để ánh sáng chiếu qua vai, và tôi cầm một tờ tạp chí lên. Tiêu đề chẳng có ý nghĩa gì với tôi vì nó có thể là tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc tiếng Đức, tôi không thể đọc được bất kỳ từ nào trong số đó. Nhưng khi tôi mở tờ tạp chí đặc biệt này, nó có vẻ là của Ấn Độ, vì nó có hình một bản đồ trên trang bìa và tôi có thể nhận ra một số tên, một số hình dạng của các từ ngữ.

Tôi lật qua các trang. Từ ngữ cũng chẳng có ý nghĩa gì với tôi, và tôi dành hết tâm trí mình cho những bức tranh. Tôi ngồi đó cảm thấy hài lòng, cảm nhận rằng số phận của mình đã thay đổi tốt hơn. Tôi rất vui khi chỉ nhìn vào những bức tranh còn suy nghĩ của mình cứ lang thang xa xăm. Tôi thơ thẩn lật từng trang, rồi dừng lại, cười, cười và cười một mình; ở chỗ hai trang ngay chính giữa là một bộ sưu tập hình ảnh những người đàn ông đang đứng ngược bằng đầu, tự quấn mình như cái nút thắt, và đủ thứ dáng vẻ tương tự. Bây giờ tôi đã hiểu những gì tôi đang thấy, đó là một số bài tập yoga rất được sùng bái ở Ấn Độ bấy giờ. Tôi cười ngặt nghẽo và lớn tiếng trước một số biểu hiện, rồi đột ngột ngừng lại khi nhìn lên và thấy Thầy hướng dẫn của tôi, Lạt ma Mingyar Dondup, đang mỉm cười với mình qua cánh cửa liên lạc vừa mở.

Trước khi tôi có thể lồm cồm đứng dậy, ông vẫy tôi ngồi xuống và nói: “Không, chúng ta không cần tới nghi thức ở đây, Lobsang. Sự trang trọng phù hợp cho những lúc trang trọng, nhưng căn phòng này là nhà của con, cũng như phòng của ta”, ông ra hiệu từ chỗ cửa, “là nhà của ta. Nhưng điều gì khiến con cười nhiều thế?” Tôi kìm nén sự đùa giỡn đang trỗi dậy và chỉ vào những bức ảnh yoga. Thầy bước vào phòng và ngồi trên sàn với tôi.

 “Con không nên cười nhạo vào niềm tin của người khác, con biết đấy Lobsang, bởi vì con không muốn người khác cười nhạo vào niềm tin của mình. Những người này”, ông chỉ vào những bức tranh, “đang tập yoga. Ta không tập yoga, cũng như không có bất kỳ Lạt ma cao cấp nào tập, chỉ những người không có khả năng thực hiện những điều siêu hình mới tập yoga”. “Thưa sư phụ!” Tôi nói hơi phấn khích. “Thầy có thể cho con biết đôi điều về yoga không, cách mọi người tập nó, nó là gì? Con không hiểu được về các việc này”. Thầy hướng dẫn của tôi nhìn những ngón tay của ngài một lúc, rồi trả lời tôi: “Chà, được, con phải tìm hiểu về những điều này. Chúng ta nói chuyện về họ bây giờ. Ta sẽ nói với con đôi điều về yoga”.

Tôi ngồi lắng nghe trong khi Thầy tôi nói. Ngài đã ở khắp mọi nơi, nhìn thấy mọi thứ, và hoàn thành mọi thứ, và tôi không muốn gì hơn là bắt chước ngài. Tôi chăm chú lắng nghe hơn cả một cậu bé bình thường khi thầy đang nói chuyện.

 “Ta không hứng thú với yoga”, ông nói, “bởi vì yoga chỉ là một phương tiện rèn luyện kỷ luật cơ thể. Nếu một người đã có kỷ luật về cơ thể, thì yoga chỉ trở thành một sự lãng phí thời gian. Ở đất nước này, không ai ngoại trừ những tầng lớp rất thấp từng tập yoga. Người Ấn Độ đã rất sùng bái yoga, và ta vô cùng lấy làm tiếc, vì điều đó đang dẫn người ta xa rời Chân lý thực sự. Người ta thừa nhận rằng trước khi ai có thể thực hiện các thực hành siêu hình khác nhau, người đó phải kiểm soát được cơ thể, phải có khả năng kiểm soát được hơi thở, cảm xúc, cơ bắp của mình. Nhưng”, ông mỉm cười nhìn tôi, “Ta phản đối yoga, bởi vì nó chỉ đơn thuần là cố gắng bằng vũ lực để thực hiện điều đáng lẽ phải đạt được bằng các phương tiện tâm linh”.

Trong khi thầy nói, tôi xem những bức tranh, điều đáng chú ý là mọi người đang cố gắng uốn mình như nút thắt và nghĩ rằng đó là tâm linh. Nhưng Thầy hướng dẫn của tôi tiếp tục, “Nhiều người Ấn Độ loại thấp hơn có thể thực hiện một hình thức đánh lừa bằng cách đam mê yoga. Họ có thể thực hiện thuật thôi miên và nhiều mánh khóe khác mà họ khiến bản thân tin rằng đó là một điều tâm linh thực sự; còn thì, nó là một thủ thuật, và không có gì hơn. Ta chưa từng nghe nói có ai dựa vào việc trói chặt thân thể như vậy mà đến được Thiên Vực.” Ông cười nói.

 “Nhưng tại sao người ta lại làm được những điều đặc biệt như vậy?” tôi hỏi. “Có một số việc nhất định, một số biểu hiện thể chất nhất định có thể đạt được nhờ yoga, và chắc chắn rằng nếu một người tập yoga thì có thể phát triển một số cơ bắp, nhưng điều đó không giúp ích gì cho việc phát triển tâm linh. Nhiều người Ấn Độ tổ chức biểu diễn, và những người đàn ông như vậy được gọi là fakir. Họ đi từ làng này sang làng khác, thị trấn này sang thị trấn khác, để tổ chức các cuộc biểu diễn yoga, có thể tự uốn mình thành những nút thắt, như con gọi vậy, hoặc giơ cánh tay trên đầu trong một thời gian dài, hoặc làm những điều đáng chú ý khác. Họ tạo dáng thần thánh như thể họ đang làm điều kỳ diệu nhất, và bởi vì họ là một thiểu số ồn ào thích công khai nên mọi người đã đi đến kết luận rằng yoga là một cách để dễ dàng đạt được Sự thật vĩ đại. Điều này hoàn toàn sai lầm, yoga chỉ hỗ trợ một người phát triển hoặc kiểm soát hoặc kỷ luật về cơ thể, và nó không giúp một người đạt được về tâm linh”.

Ông cười và nói: “Con sẽ khó tin được điều này, nhưng từ khi còn rất trẻ, ta đã tự mình thử tập yoga, và ta thấy rằng mình đã dành quá nhiều thời gian để thực hiện một số bài tập trẻ con đến nỗi ta không còn đủ thời gian để cống hiến cho sự tiến bộ tâm linh. Vì vậy, theo lời khuyên của một người già khôn ngoan, ta đã từ bỏ yoga và bắt tay vào công việc nghiêm túc”. Ông nhìn tôi rồi giơ cánh tay về hướng Lhasa, và vung nó về hướng Potala, rồi nói: “Ở khắp đất nước của chúng ta, con sẽ không tìm thấy lạt ma cao cấp nào đang tập yoga. Họ đi thẳng vào vấn đề thực tế, và”, ông nhướng mày nhìn tôi chằm chằm khi nói tiếp, “con sẽ luôn thấy các nhà yogi tạo ra nhiều chấn động trong công chúng, khi nói rằng họ tuyệt vời như thế nào, họ quan trọng như thế nào, và làm thế nào họ có chìa khóa cho việc cứu rỗi và tâm linh. Tuy nhiên, người Chân sư siêu hình thực sự sẽ không nói về những gì người ấy thực sự có thể làm. Thật không may, trong yoga, có một thiểu số ồn ào cố gắng gây ảnh hưởng đến dư luận. Lời khuyên của ta dành cho con, Lobsang, là thế này: đừng bao giờ, đừng bao giờ bận tâm đến yoga, vì nó hoàn toàn vô ích đối với con. Bạn được sinh ra với một số năng lực nhất định, khả năng thấu thị, thần giao cách cảm, v.v., và con hoàn toàn không có nhu cầu gì để tập yoga, nó thậm chí có thể gây hại”.

Trong khi ông nói, tôi lật các trang hoàn toàn không để ý. Và khi nhìn xuống, tôi chăm chú vì thấy một người đàn ông phương Tây có vẻ mặt nhăn nhó khi anh ta đang cố gắng thực hành một bài tập. Tôi chỉ bức ảnh cho thầy, thầy nhìn và nói, “À, đúng, đây là một nạn nhân của yoga. Người đàn ông Tây phương này đã thử tập, và bị trật xương trong quá trình này. Người phương Tây rất không khôn ngoan khi cố gắng tập yoga, bởi vì cơ và xương của họ không đủ dẻo dai. Người ta chỉ nên tập yoga, nếu thực sự muốn, nếu được tập luyện từ rất sớm. Để làm điều này đối với những người ở độ tuổi trung niên, à, điều đó thật ngu ngốc và chắc chắn là có hại. Tuy nhiên, thật nực cười khi nói rằng việc tập yoga gây ra bệnh tật. Không phải vậy. Tất cả những gì nó làm là sử dụng một số cơ bắp, và đôi khi một người có thể bị trật khớp hoặc căng cơ, nhưng đó là do lỗi của chính người đó, họ không nên dính vào những việc như vậy”. Ông cười, gấp tờ giấy lại và nói: “Yogi duy nhất mà ta từng gặp là kẻ lập dị thực sự, nghĩ rằng mình là người thông minh nhất từ trước đến nay, nghĩ rằng mình biết mọi thứ, và nghĩ rằng việc thực hành yoga là sự cứu rỗi của thế giới. Thay vào đó, nó chỉ là một bài rèn luyện, chẳng hạn như khi các cậu trèo cây hoặc đi cà kheo, và khi các cậu chạy để thả diều lên trời. Yoga à? Chỉ là một bài tập thể chất, không có gì hơn, không có gì thuộc tâm linh. Có thể nó sẽ giúp một người bằng cách cải thiện tình trạng thể chất của người đó, để sau đó người ta có thể quên đi yoga và tiếp tục với những điều quan trọng, những điều thuộc về tinh thần. Rốt cuộc thì, sau một số năm, mọi người đều rời bỏ cơ thể, và khi đó cơ thể có đầy cơ bắp và xương chắc khỏe hay không cũng không quan trọng nữa, điều quan trọng duy nhất lúc đó là trạng thái của linh hồn”.

Ông quay lại với chủ đề và nói: “Ồ, và ta nên cảnh báo cho con điều này: nhiều người luyện tập yoga quên rằng môn yoga của họ chỉ là một sự tôn sùng về rèn luyện thể chất. Thay vào đó, họ đã sử dụng một số thực hành chữa bệnh huyền bí của chúng ta, và nói rằng những thực hành chữa bệnh này là một phần phụ trợ của yoga. Điều đó là hoàn toàn sai, bất kỳ nghệ thuật chữa lành nào cũng có thể được thực hiện bởi một người hoàn toàn không biết gì về yoga, và thường được thực hiện tốt hơn nhiều. Vì vậy”, ông chỉ vào tôi một cách nghiêm khắc, “con đừng bao giờ trở thành nạn nhân của việc quảng bá yoga, nó thực sự có thể dẫn dắt con ra khỏi Con đường”.

Ông quay đi và bước về phòng mình, rồi ông quay lại nói với tôi, “Ồ! Ta có một số sơ đồ ở đây mà ta muốn con gắn lên trên tường con. Tốt hơn là con nên đến lấy”. Sau đó, ông đến bên tôi và nâng tôi lên để tôi không phải cố gắng tự đứng dậy. Tôi đi sau ông vào phòng ông, và ở đó có ba cuộn giấy trên bàn. Ông giơ một cuộn lên và nói: “Đây là một bức tranh rất cổ của Trung Quốc, cách đây hàng trăm năm, được làm bằng gỗ lạng. Nó hiện đang ở thành phố Bắc Kinh, trong minh họa này, ta muốn con nghiên cứu cẩn thận cách thức của các cơ quan trong cơ thể, qua việc mô phỏng các nhà sư thực hiện các nhiệm vụ khác nhau”. Ông dừng lại và chỉ vào một chỗ cụ thể. “Ở đây,” ông nói, “các nhà sư đang bận rộn trộn thức ăn và chất lỏng, đó là dạ dày. Các nhà sư đang chuẩn bị cho toàn bộ thức ăn này đi qua các ống khác nhau, trước khi đến chỗ các nhà sư khác. Nếu con nghiên cứu tranh này, con sẽ có một ý tưởng rất hay về hoạt động cơ bản của cơ thể con người”.

Ông cuộn bức vẽ lại, cẩn thận buộc nó bằng những sợi dây nhỏ đính sẵn, rồi ông lấy một cuộn khác giơ lên cho tôi xem. “Đây,” ông tiếp tục, “là hình ảnh minh họa cột sống với nhiều luân xa khác nhau. Từ đây con sẽ thấy các trung tâm năng lượng khác nhau, phân bố ở giữa đáy cột sống và đỉnh đầu như thế nào. Sơ đồ này phải ở ngay trước mặt con, để con có thể nhìn thấy nó là thứ cuối cùng vào ban đêm và thứ đầu tiên vào buổi sáng”.

Ông cẩn thận quấn cuộn giấy và buộc nó lại, rồi ông chuyển sang cuộn tiếp theo, cuộn thứ ba. Ông cởi dây buộc và giơ cao tấm sơ đồ. “Đây là hình minh họa hệ thần kinh, cho con thấy những thứ mà con sẽ phải nghiên cứu, chẳng hạn như hạch cổ, dây thần kinh phế vị, đám rối thần kinh tim, đám rối thần kinh mặt trời và đám rối thần kinh chậu. Tất cả những điều này con phải biết bởi vì chúng rất cần thiết cho con, với tư cách là một Lạt ma y tế đang được đào tạo”.

Tôi nhìn mọi thứ, càng lúc càng cảm thấy chán nản, vì với tôi, dường như tôi không bao giờ có thể làm chủ được tất cả những thứ này, tất cả những mảnh vặn vẹo của cơ thể con người, tất cả những mảnh nhỏ ngoằn ngoèo của dây thần kinh, và những đốm màu lớn là luân xa. Nhưng, tôi nghĩ, mình còn nhiều thời gian, hãy để tôi đi theo tốc độ của riêng mình. Và nếu tôi không thể học được nhiều như họ nghĩ rằng tôi nên học, thì tốt thôi, người ta không thể làm gì hơn được so với khả năng tốt nhất của người đó.

 “Bây giờ ta khuyên con nên ra ngoài và hít thở không khí. Chỉ cần để những thứ này trong phòng con, rồi sau đó con muốn làm bất cứ điều gì trong thời gian còn lại của hôm nay là việc riêng của con… trừ phi con nghịch ngợm! Ông nói với nụ cười trên môi. Tôi cung kính cúi chào ông và cầm ba cuộn giấy lên. Sau đó, tôi trở về phòng riêng của mình, đóng cánh cửa liên lạc giữa chúng tôi lại. Trong một lúc, tôi đứng giữa phòng tự hỏi làm thế nào để xử lý những thứ khốn khổ này. Sau đó tôi quan sát thấy có những chỗ móc nhô ra thích hợp trên tường. Tôi cẩn thận lấy một cái bàn và đặt nó bên dưới một chỗ móc; trèo lên chiếc bàn giúp tôi cao thêm tầm một foot hay mười tám inch gì đó, cuối cùng tôi cũng móc được sợi dây của sơ đồ đầu tiên. Tôi thận trọng lui về phía xa của căn phòng và nhìn tác phẩm của mình một cách tán thưởng. Không được, nó chưa thẳng thớm. Tôi xem xét mọi thứ một cách nghiêm túc, và vội vã tiếp tục để đảm bảo rằng mọi thứ đều đúng cách như nó phải thế. Hài lòng vì treo đúng và thẳng được một cái, tôi bắt đầu làm việc với hai cái còn lại. Cuối cùng thì cũng hài lòng, tôi phủi hai tay vào nhau với vẻ tự mãn. Mỉm cười mãn nguyện, tôi bước ra khỏi phòng và phân vân không biết nên đi đường nào. Nhưng khi đi ngang qua cửa phòng Thầy tôi, tôi nhìn thấy vị tu sĩ phục vụ ở cuối hành lang. Anh ấy chào tôi một cách thân thiện và nói: “Đó là lối ra ngoài nhanh nhất, là cánh cửa riêng dành cho các lạt ma, nhưng tôi đã được thông báo rằng cậu được phép sử dụng nó”. Anh ấy chỉ về hướng đó, tôi cảm ơn anh và nhanh chóng phóng ra ngoài bầu không khí trong lành.

Tôi đứng ngoài trời. Điểm cuối của con đường núi ở ngay dưới chân tôi. Bên phải, một nhóm tu sĩ đang bận rộn làm việc. Tôi nghĩ có vẻ như họ đang quét dọn đường, nhưng tôi không lảng vảng tới đó, tôi không muốn bị giao bất kỳ nhiệm vụ nào. Thay vào đó, tôi tiến về phía trước và ngồi trên một tảng đá một lúc, nhìn ra phía thành phố cách đó không xa, đủ gần để tôi có thể phân biệt được dưới bầu không khí trong lành của Tây Tạng, đâu là y phục của thương nhân, thầy tu, và các lạt ma đang đi làm việc của họ.

Lát sau, tôi di chuyển xuống dưới vài thước ngồi trên một tảng đá khác, bên cạnh có một bụi cây nhỏ dễ thương. Bây giờ tôi chú ý tới đầm lầy phía dưới, cỏ xanh tươi tốt và tôi có thể phân biệt được cả những bong bóng từ cá đang ẩn nấp trong các nơi sâu. Khi tôi đang ngồi đó, đột nhiên có một tiếng động lao tới từ phía sau và một tiếng khàn khàn kêu lên, “Gừ gừ? Mm Mm!”. Cùng với đó, sau lưng tôi là một cái dụi nồng nhiệt, một cái đầu đầy lông chào đón tôi. Tôi vòng tay qua vuốt ve con mèo già, nó liếm tôi, liếm tôi bằng cái lưỡi xù xì như sỏi dưới đất. Sau đó, con mèo lao vòng ra phía trước, nhảy lên đùi tôi; nhảy xuống rồi laji lao qua mấy bụi cây, quay vòng lại đối mặt với tôi. Trông nó như đang yêu cầu tôi điều gì khi đứng đó đuôi dựng lên, tai đứng thẳng, hướng về phía tôi với đôi mắt xanh lấp lánh. Tôi không di chuyển, vì vậy nó lại lao lên dốc về phía tôi và kêu: “Meo! Meo!” Tôi vẫn không di chuyển, nó đưa một bàn chân ra và móc móng vuốt vào dưới áo choàng tôi rồi nhẹ nhàng giật. “Ồ, mèo à, có chuyện gì với bạn thế?” Tôi bực tức hỏi. Từ từ lồm cồm đứng dậy, tôi nhìn quanh xem con mèo đang kích động về điều gì. Không thấy có gì cả, nhưng con mèo đang lao về phía một bụi cây ở đằng xa, và sau đó lao về phía tôi rồi cào vào áo choàng tôi. Thấy vậy, tôi hướng xuống phía sườn núi và bắt đầu đi xuống một cách chậm rãi, thận trọng. Con mèo khá phấn khích nhảy múa, quay vòng, lao lên không trung và đâm bổ vào tôi.

Tôi bám vào bụi cây để đi chậm rãi, và đến được chỗ con mèo quay lại đối mặt với tôi, nhưng không thấy gì cả. “Mèo à, cậu là một thằng ngốc!” Tôi bực bội nói. “Cậu đã kéo tôi xuống đây chỉ để chơi đùa”. “Meo! Meo!”, con mèo trả lời, lại cào vào áo choàng rồi len vào giữa hai chân tôi, thọc đầu vào bên trong áo choàng, và gặm những ngón chân trần lộ ra từ đôi dép.

Thở dài cam chịu, tôi tiến xa hơn một chút, len qua một bụi cây và bám chặt vì đây là một gờ đá, nếu không bám chặt vào đó thì tôi có thể rơi xuống mép vực. Tôi quay sang nói những điều rất không tử tế với người bạn mèo lúc này đang kích động điên cuồng. Phóng xung quanh tôi, rồi nó lao qua rìa vực. Trái tim tôi gần như ngừng đập vì sốc, vì con mèo già là một người bạn rất tốt của tôi, và tôi nghĩ nó đã tự tử!

Rất thận trọng, tôi khuỵu xuống và bám lấy bụi cây nhìn qua mép vực. Khoảng 12 feet bên dưới, tôi nhìn thấy thân thể của một nhà sư già. Mắt tôi kinh hoàng khi nhìn thấy đầu ông bê bết máu, và áo choàng của ông cũng dính máu. Tôi nhận thấy chân phải của ông bị bẻ cong ở một góc không tự nhiên. Tim tôi đập thình thịch vì sợ hãi, kích động và nỗ lực. Tôi nhìn quanh, thấy ngay bên trái có con dốc nhỏ, tôi đi xuống phía đầu của vị sư già.

Thật rón rén, gần như muốn nhảy dựng lên vì sợ, tôi chạm vào ông. Ông ấy còn sống. Khi tôi chạm vào mắt ông, nó nhấp nháy yếu ớt và ông rên rỉ. Tôi nhận thấy ông đã bị ngã đập đầu vào một tảng đá. Con mèo lúc này đang ngồi nhìn tôi chăm chú.

Tôi nhẹ nhàng xoa đầu vị sư già, vuốt từ dưới tai xuống cổ cho đến tim. Một lúc sau, mắt ông mở ra và ông đờ đẫn nhìn quanh. Đôi mắt ông dần tập trung lại, tập trung vào tôi. “Không sao đâu”, tôi nhẹ nhàng nói. “Con sẽ lên tìm sự trợ giúp cho thầy. Con sẽ không đi lâu đâu”. Ông già tội nghiệp cố mỉm cười và nhắm mắt lại. Tôi rời đi, chống bằng tay và đầu gối, là cách an toàn nhất và nhanh nhất, tôi đi lên đỉnh và lao qua con đường để vào cánh cửa khuất dành cho các lạt ma. Khi vừa bước vào, tôi suýt đụng vào nhà sư phục vụ đang ở đó. “Nhanh lên! Nhanh lên!” Tôi gọi. “Có một nhà sư bị thương nằm trên đá.” Khi tôi đang hỗn loạn nói, Thầy tôi bước ra khỏi phòng và nhìn một cách dò hỏi.

“Thưa sư phụ! Thưa sư phụ!” Tôi nói, “Con vừa tìm thấy, với sự giúp đỡ của Puss Puss đáng kính, có một nhà sư già bị thương. Ông ấy bị chấn thương ở đầu, và chân của ông ấy bị cong một cách bất thường. Ông ấy cần giúp đỡ gấp”. Thầy tôi nhanh chóng hướng dẫn cho nhà sư phục vụ và sau đó quay sang tôi nói: “Con hãy dẫn đường, Lobsang, ta theo sau”.

Chúng tôi cùng nhau ra khỏi tu viện Chakpori và băng qua con đường nhỏ. Tôi dẫn ông xuống con dốc, sửng sốt nhận thấy chiếc áo cà sa của ông đang bị vấy đất; áo của tôi đã quá bẩn đến nỗi có thêm một vài vết nữa cũng không chẳng có gì khác biệt! Puss Puss đáng kính đang nhảy múa trên con đường phía trước chúng tôi, và nó trông thực sự nhẹ nhõm khi thấy Lạt ma Mingyar Dondup đi cùng tôi.

Chẳng mấy chốc, chúng tôi đến chỗ vị sư già vẫn đang nhắm mắt. Thầy hướng dẫn của tôi quỳ xuống bên cạnh ông và lấy ra nhiều gói khác nhau từ ngăn trong của áo choàng, băng và một số thứ mà người gắn trên một mảnh vải, và giữ dưới mũi của nhà sư già. Nhà sư hắt hơi dữ dội và mở mắt ra, đôi mắt ông căng thẳng và đau đớn. Ông thực sự rất nhẹ nhõm khi nhìn thấy người đang chăm sóc mình. “Không sao đâu, bạn ạ, người giúp đỡ đang đến chỗ bạn”, Thầy tôi nói. Nghe vậy, vị sư già nhắm mắt lại và thở phào nhẹ nhõm.

Sư phụ tôi kéo chiếc áo choàng của nhà sư lên, và chúng tôi nhìn thấy những mẩu xương dính vào da chân ngay dưới đầu gối. Thầy tôi nói, “Hãy nắm lấy tay ông ấy, Lobsang, ôm ông ấy thật chặt. Dùng trọng lượng của con để ông ấy không thể dịch chuyển. Ta sẽ kéo cái chân thẳng ra. Sau đó, ông nắm lấy mắt cá chân của nhà sư, và với một cú kéo đột ngột rất nhanh, duỗi thẳng cái chân và tôi thấy cái xương biến mất vào trong da. Việc này được thực hiện quá đột ngột, quá cẩn thận đến nỗi ông già thậm chí còn không có thời gian để rên rỉ.

Thầy tôi nhanh chóng vươn tới hai cành vừa tay trên một bụi cây khá to. Ông dùng một con dao cắt rời chúng, và bọc chúng bằng một mảnh áo choàng của mình. Ông buộc chúng nẹp vào chân nhà sư. Sau đó, chúng tôi ngồi chờ đợi.

Chẳng mấy chốc có tiếng loẹt quẹt và xôn xao khi một nhóm các nhà sư do một lạt ma dẫn đầu xuất hiện trên con đường mòn. Chúng tôi gọi, và hướng dẫn họ đến nơi chúng tôi đang đứng. Họ thận trọng tụm lại chỗ vị sư già. Một nhà sư trẻ, không cẩn thận chút nào, lại cố thể hiện, cố tỏ ra mình vững vàng. Anh bị trượt chân do những cục đá lỏng lẻo, tuột khỏi vị trí và bắt đầu trượt xuống sườn núi. Chân áo choàng của anh bị móc vào một bụi cây và lộn nó lên trên đầu. Rồi anh ấy, giống như một quả chuối đã bóc vỏ, trần truồng đung đưa trước ánh nhìn chằm chằm của những người hành hương trên Đường vành đai bên dưới. Thầy hướng dẫn của tôi cười khúc khích, và ra lệnh cho hai người khác đến giải cứu anh ta ngay lập tức. Sau khi được kéo về, anh ta trông rất xấu hổ và mặt đỏ bừng. Tôi để ý rằng anh ấy sẽ phải đứng trong vài ngày nếu muốn thoải mái, vì chỗ sẽ tiếp xúc với sàn nhà khi ngồi, hiện đã bị đá núi làm cho trầy xước khá nặng!

Thận trọng, các nhà sư lật người bị thương lại để họ có thể trượt một tấm vải bạt dài bên dưới ông. Sau đó, họ lật ông lại và đưa ông lên một chiếc cáng. Họ quấn tấm vải quanh người ông, tạo thành một cái ống, rồi luồn một cây sào chắc chắn vào bên trong, buộc ông vào cây sào bằng những sợi vải dài bản rộng. May mắn là, ông đã bất tỉnh, sau đó hai nhà sư nâng hai đầu sào lên và cùng với sự giúp đỡ của những người phía sau để đẩy, và giữ vững chân, họ đi chậm rãi, thận trọng qua các bụi cây, đi lên con đường mòn đến khu vực an toàn của Chakpori.

Tôi đứng vỗ về Puss Puss đáng kính, kể với thầy tôi rằng Puss Puss đáng kính đã gọi tôi xuống để giúp đỡ ông già như thế nào. “Ông già đáng thương có lẽ đã chết nếu bạn không gọi, Puss Puss đáng kính”, Thầy tôi nói và xoa lông con mèo già. Sau đó ông quay sang tôi nói: “Con làm tốt lắm, Lobsang, con đã bắt đầu rất tốt. Cứ tiếp tục vậy nhé”.

Chúng tôi cùng nhau leo lên con đường núi, cả hai chúng tôi đều ghen tị với Chú mèo đáng kính đang nhảy múa và nô giỡn phía trước. Sư phụ tôi vào trong Chakpori, nhưng tôi vẫn ngồi trên tảng đá phía trên, chọc ghẹo Chú mèo đáng kính bằng một mảnh vỏ cây. Mảnh vỏ cây mềm dẻo đẹp đẽ nhưng nó giả vờ là một kẻ thù hung dữ nào đó. Nó nhảy nhót, gầm gừ và tấn công cái vỏ cây, và chúng tôi cùng nhau đều có cảm giác bạn bè nồng ấm nhất.

Chiếc áo Cà sa 11

Chương 11

Chương 11

Chúng tôi cùng nhau đi dọc các hành lang, cuối cùng đến được sân trong, nơi các nhà sư chăm sóc ngựa đang giữ sẵn hai con, một con dành cho Thầy của tôi là Lạt ma Mingyar Dondup và con kia dành cho kẻ không may mắn là tôi! Sư phụ ra hiệu cho một người giữ ngựa giúp tôi cưỡi lên, và tôi mừng là chân tôi bị đau, vì tôi và một con ngựa hiếm khi đến cùng một điểm. Nếu leo lên ngựa, con ngựa di chuyển và tôi ngã xuống đất, hoặc nếu tôi mong đợi con ngựa di chuyển và thực hiện một cú nhảy, thì con ngựa lại không chịu di chuyển còn tôi thì nhảy lộn qua sinh vật khốn khổ đó. Nhưng lần này với lý do là đôi chân tôi bị thương, tôi được đỡ lên con ngựa đó, và ngay lập tức tôi đã làm một trong những việc CHƯA TỪNG LÀM ĐƯỢC! Tôi bắt đầu cưỡi ngựa đi mà không chờ Thày hướng dẫn. Ông ấy cười phá lên khi nhìn thấy tôi, biết rằng tôi không kiểm soát được con ngựa bất hạnh đó. Con ngựa sải bước ra khỏi sân và đi trên con đường mòn, tôi bám chặt vì mạng sống thân yên của mình, sợ bị lăn qua sườn núi.

Gần chỗ bức tường bên ngoài nơi tôi cưỡi ngựa. Một khuôn mặt béo và thân thiện ló ra khỏi cửa sổ ngay bên trên và gọi, “Tạm biệt, Lobsang, hãy quay lại sớm nhé, chúng ta sẽ có một ít lúa mạch tươi vào tuần tới, thứ tốt, thứ tốt hơn những thứ chúng ta đã có gần đây. Cậu gọi và tới chỗ tôi ngay khi đến nhé”. Nhà sư đầu bếp nghe thấy tiếng một con ngựa khác đang đến và đảo mắt sang trái, và kêu lên một tiếng “Ôi! Ái! Ái! Lạt ma Y khoa đáng kính, xin thứ lỗi cho tôi!” Thầy tôi đang tới và vị tu sĩ đầu bếp tội nghiệp nghĩ rằng ông ta đã “làm một việc xấc xược”, nhưng nụ cười thân thiện của Thầy sớm làm cho ông ta thấy thoải mái.

Tôi cưỡi ngựa xuống núi, Thầy hướng dẫn cười khúc khích phía sau. “Chúng ta sẽ phải bôi keo lên con ngựa cho con, Lobsang ạ”, ông khúc khích. Tôi ủ rũ nhìn lại ông. Thầy là một người đàn ông to lớn, cao khoảng 6 feet và nặng hơn 200 pound. Ông có cơ bắp, có đầu óc, và tôi không nghi ngờ gì rằng nếu ông muốn, ông có thể nhấc con ngựa đó lên và mang nó xuống sườn núi thay vì con ngựa đưa ông đi. Mặt khác, tôi cảm thấy mình như một con ruồi đậu trên một sinh vật. Tôi hầu như không kiểm soát được con vật. Và thỉnh thoảng, chắc là do bản chất nghịch ngợm của nó, và biết rằng tôi đang sợ cứng người, nó đi đến rìa con đường và nhìn thẳng xuống lùm liễu phía dưới, hí lên; có lẽ nó đang thích thú khi làm vậy.

Chúng tôi đến chân núi và đi dọc theo đường Dodpal, vì trước khi đi tiếp đến Chakpori, chúng tôi cần gọi điện đến một trong những văn phòng của Chính phủ ở Làng Shö. Đến nơi, Thày hướng dẫn rất ân cần buộc con ngựa của tôi vào một cái cột và nhấc tôi lên rồi nói, “Bây giờ con cứ ở đây, Lobsang, ta sẽ đi không quá mười phút”. Ông cầm lấy một chiếc túi và sải bước vào một văn phòng, để tôi ngồi trên đống đá.

“Ở đó! Ở đó!” một giọng vùng quê sau lưng tôi nói. “Tôi đã thấy Lạt ma mặc áo cà sa màu vàng nghệ xuống ngựa và đây là cậu bé trông ngựa của ông ấy. Khỏe không, Sư phụ trẻ tuổi?” Tôi nhìn quanh và thấy một nhóm nhỏ những người hành hương. Họ lè lưỡi theo cách chào truyền thống của người Tây Tạng mà những người dưới chào bề trên của mình`. Ngực tôi căng phồng tự hào, tôi không chút xấu hổ đắm mình trong vinh quang khi trở thành “cậu bé của Lạt ma mặc áo cà sa mày vàng nghệ”. “Ồ!” tôi trả lời. “Các ngài không nên tới gặp một thầy tu theo cách bất ngờ như thế, chúng tôi luôn thiền định, các ngài biết đấy, và một cú sốc bất ngờ rất có hại cho sức khỏe của chúng tôi.” Tôi cau mày một cách khá không tán thành khi nhìn về phía họ, và tiếp tục: “Sư phụ và cũng là Thầy hướng dẫn của tôi, Lạt ma Mingyar Dondup, người mặc chiếc áo cà sa màu vàng nghệ, là một trong những Lạt ma quan trọng nhất ở đây. Ông thực sự là một người rất vĩ đại, và tôi khuyên các ngài không nên đến quá gần con ngựa của ông ấy, vì con ngựa của ông cũng rất quan trọng khi đang chở một kỵ sỹ cừ khôi. Nhưng bây giờ hãy đi thẳng, đi thẳng, đừng quên đi quanh Đường vành đai, việc này sẽ mang lại nhiều điều tốt đẹp cho các ngài! Nói xong, tôi quay đi với hy vọng rằng mình đã hành động như một nhà sư chân chính, hy vọng rằng mình đã gây được ấn tượng tốt.

Một tiếng cười khúc khích gần đó khiến tôi nhìn lên khá tội lỗi. Một thương nhân đang đứng đó dùng một mẩu rơm ngoáy kẽ răng, một tay chống nạnh, tay kia mấp máy miệng. Tôi vội vàng nhìn quanh và thấy những người hành hương, đã theo trật tự, tiếp tục việc đi vòng của họ. “Nào? Ông muốn gì?” Tôi nói với người lái buôn già đang nhìn tôi qua đôi mắt sưng húp, khuôn mặt nhăn nheo vì năm tháng. “Tôi không có thời gian để lãng phí đâu!” Tôi nói. Ông già mỉm cười hiền từ. “Nào, bây giờ, Thầy trẻ tuổi, đừng quá khắc nghiệt với một thương nhân già nghèo khó kiếm sống trong những ngày khó khăn, vất vả này. Thầy có tình cờ mang theo bất kỳ món đồ nữ trang rẻ tiền nào không, bất cứ thứ gì cậu mang từ Ngôi nhà Lớn phía trên đó? Tôi có thể cho cậu một mức giá rất tốt từ mẩu tóc hoặc một mảnh áo cà sa Lạt ma, tôi có thể cho cậu một mức giá tốt hơn nữa cho bất cứ thứ gì đã được ban phước bởi một trong những Lạt ma cấp cao, chẳng hạn các thứ từ vị Sư phụ mặc áo cà sa màu vàng chỗ cậu. Nói đi, Thiếu gia, hãy lên tiếng trước khi ông ấy quay lại bắt chúng ta.

Tôi khịt mũi nhìn ông ta và nghĩ, không, nếu tôi có một tá áo choàng thì tôi cũng sẽ không bán để chúng bị buôn bán bởi những kẻ giả mạo và lang băm. Ngay sau đó, tôi vui mừng khi thấy Thầy hướng dẫn đang đến. Người lái buôn già cũng nhìn thấy ông, và bỏ đi với dáng vẻ lảo đảo.

“Con đang cố gắng làm gì thế, mua chuộc với thương nhân à?” Thầy hướng dẫn hỏi. “Không, thưa Sư Phụ,” tôi đáp, “hắn đang cố mua chuộc Thầy hoặc bất cứ mảnh vụn nào từ Thầy, mẩu tóc, mảnh áo choàng, hoặc bất cứ thứ gì mà hắn nghĩ lẽ ra con có thể ăn cắp từ Thầy.” Lạt ma Mingyar Dondup cười, nhưng tiếng cười của ông có vẻ buồn bã, khi ông quay lại và nhìn chằm chằm vào người thương nhân đang vội vã đi khỏi phạm vi có thể gọi được. “Thật đáng tiếc là những người bạn này luôn luôn tìm cách. Thật đáng tiếc khi họ cố gắng có được thứ gì đó, và gán cho nó một giá trị sai lầm. Rốt cuộc, điều quan trọng không phải là cái áo choàng màu vàng, mà là linh hồn của người mặc áo choàng màu vàng”. Nói xong, Thầy nâng tôi lên bằng một động tác nhanh nhẹn dễ dàng và đặt tôi lên lưng con ngựa của tôi. Con ngựa trông cũng ngạc nhiên như tôi cảm thấy. Sau đó, ông tháo dây cương đưa cho tôi (như thể tôi biết phải làm gì với nó!) và leo lên con ngựa của ông. Chúng tôi cưỡi ngựa đi khỏi đó.

Chúng tôi đi xuống khỏi Mani Lhakhang, qua phần cuối Làng Shö, qua Pargo Kaling, rồi băng qua cây cầu nhỏ bắc qua một nhánh sông Kaling Chu. Tiếp theo chúng tôi rẽ trái, đi qua Công viên nhỏ Kundu, và rẽ trái vào con đường tiếp theo để đến Chakpori của chúng tôi.

Đây là một con đường gồ ghề và đầy đá, một con đường khó đi, một con đường cần tới một con ngựa chắc chân. Núi Sắt, tên chúng tôi gọi Chakpori của mình, cao hơn ngọn núi nơi Potala tọa lạc, và đỉnh núi đá chỗ chúng tôi nhỏ hơn, sắc hơn, và dốc hơn. Sư phụ tôi dẫn đường, con ngựa của ông thường xuyên bật những viên đá nhỏ, lăn trên đường về phía tôi. Con ngựa của tôi theo sau, cẩn thận chọn một lối đi. Chúng tôi đi lên, tôi nhìn sang bên phải của mình – về phía Nam – nơi dòng sông Hạnh phúc chảy qua, sông Kyi Chu. Tôi cũng có thể nhìn thẳng xuống tận Công viên Châu báu, tức Norbu Linga, nơi này Đấng Tối Cao có những giây phút giải trí rất ít ỏi. Hiện tại, công viên rất vắng vẻ, ngoại trừ một vài nhà sư làm vườn đang đứng dậy sau cơn gió cát. Không có vị lạt ma cao cấp nào xuất hiện ở đó. Tôi nghĩ, làm thế nào mà trước khi chân tôi bị thương, tôi lại thích trườn xuống sườn núi và luồn qua đường Lingkhor để đi vào Công viên Norbu Linga, cách mà tôi nghĩ là con đường siêu bí mật của riêng mình.

Chúng tôi lên tới đỉnh núi, tới khoảng không gian bằng đá trước những bức tường của Chakpori, bao quanh toàn bộ tu viện này. Nhà sư ở cổng nhanh chóng đón chúng tôi vào, hai nhà sư khác vội vã dắt ngựa chúng tôi. Tôi tách đi với niềm vui lớn lao, nhưng hơi rên rỉ khi sức nặng lại đè lên chân tôi một lần nữa. “Ta sẽ phải xem chân cho con, Lobsang, chúng không được lành như ta mong đợi”. Sư phụ nói. Một nhà sư lấy hành lý cho sư phụ và vội vã rời đi. Ông quay lại và đi vào tu viện, nói vọng lại, “Ta sẽ gặp lại con sau một giờ nữa.”

Đối với tôi, Potala quá công cộng, quá “vĩ đại”, người ta luôn phải cảnh giác phòng trường hợp vô tình làm phiền một nhà sư cao cấp hoặc một lạt ma cấp dưới. Các lạt ma cao cấp không bao giờ phật lòng, họ có nhiều điều phải lo lắng hơn là liệu một người có đang nhìn họ hay dường như phớt lờ họ hay không. Trong mọi trường hợp, chỉ có những người thấp kém mới gây sự náo động, còn cấp trên của họ rất tốt bụng, ân cần và thấu hiểu.

Tôi lững thững đi vào sân, nghĩ rằng đây sẽ là một cơ hội tốt để dùng bữa. Ở giai đoạn đó trong sự nghiệp của tôi, thức ăn là một trong những thứ quan trọng nhất; bởi vì tsampa, với tất cả các đức tính của nó, vẫn khiến người ta cảm thấy hơi đói!

Khi tôi đi dọc những hành lang nổi tiếng, tôi đã gặp nhiều người cùng thời với mình, những cậu bé đã gia nhập cùng thời điểm với tôi. Nhưng bây giờ đã có một sự thay đổi lớn, tôi không chỉ là một cậu bé khác biệt, không chỉ là một chàng trai trẻ khác để được huấn luyện hoặc để làm việc cùng. Thay vào đó, tôi ở dưới sự bảo vệ đặc biệt của Đại Lạt ma Mingyar Dondup, người mặc áo cà sa màu vàng nghệ. Đã có tin đồn rò rỉ và lan ra ngoài rằng tôi sẽ được dạy đặc biệt, rằng tôi sẽ có một căn phòng trong Khu vực của các Lạt ma; rằng tôi sẽ làm điều này, rằng tôi sẽ làm điều kia. Và tôi thích thú nhận thấy chiến tích của tôi, có thực hay do tưởng tượng, đã được nhiều người biết đến. Một cậu bé cười khúc khích với một đứa khác rằng nó đã thực sự nhìn thấy tôi bị một cơn gió lớn nhấc lên khỏi mặt đất, và thổi bay lên đỉnh Mái Vàng. “Tớ đã tận mắt chứng kiến,” nó nói. “Tớ đang đứng ở chính chỗ này, và tớ thấy cậy ấy ở dưới đó đang ngồi trên mặt đất. Sau đó, cơn bão bụi lớn ập đến, và tớ thấy Lobsang đang vung tay ở phía trên. Cậu ấy trông như thể đang chiến đấu với lũ quỷ trên mái nhà. Sau đó…” Cậu bé dừng lại đột ngột và đảo mắt để nhấn mạnh. “Và sau đó – cậy ấy đã ngã vào vòng tay của một trong những Lạt-ma Giữ Đền”. Có tiếng thở dài kinh ngạc, ngưỡng mộ và ghen tị trộn lẫn với nhau, và cậu bé tiếp tục, “Và sau đó Lobsang được đưa đến chỗ Đấng Tối Cao, điều này đã mang lại sự khác biệt và vinh dự cho cả lớp ta!”

Tôi len lỏi qua đám đông những kẻ tìm kiếm tin giật gân, đám đông những cậu bé và tu sĩ trẻ đang hy vọng rằng tôi sẽ đưa ra một thông báo gây sửng sốt nào đó, chẳng hạn một dạng Mặc khải từ các vị Thần. Nhưng tôi đang tìm kiếm thức ăn. Tôi len lỏi qua đám đông đó và loạng choạng đi xuống hành lang đến một địa điểm quen thuộc – nhà bếp.

“Ah! Thế là con đã trở lại với chúng ta, nhỉ? Nào, ngồi xuống đi, chàng trai! ngồi xuống đi, ta sẽ cho cậu ăn no. Nhìn bên ngoài là thấy cậu đã không được cho ăn uống tốt khi ở Potala. Hãy ngồi xuống và ta sẽ cho cậu ăn. Vị sư đầu bếp già đến xoa đầu tôi, và đẩy tôi ngồi trên một đống bao lúa mạch rỗng phía sau. Sau đó, ông mới mò vào trong áo choàng của tôi và lấy cái bình bát. Ông đi ra ngoài, cẩn thận lau chùi bát cho tôi (không cần thiết phải vậy!), rồi đi đến cái vạc gần nhất. Chẳng mấy chốc, ông quay trở lại làm đổ tsampa và trà khắp nơi, khiến tôi phải co chân lên phòng trường hợp rơi vào áo mình. “Đây, đây, cậu bé,” ông nói, đẩy cái bát vào tay tôi. “Ăn đi, ăn đi vì ta biết con sẽ sớm được gọi đi – Đức Trụ trì muốn nghe tất cả những gì đã xảy ra”. May mắn thay, một người khác bước vào và gọi, nên ông quay lưng lại bỏ mặc tôi với bánh tsampa của mình.

Khi đã giải quyết xong vấn đề, tôi lịch sự cảm ơn ông vì ông là một ông già tốt bụng. Ông cho rằng tụi nhóc là mối phiền toái, nhưng chúng sẽ không gây phiền toái nếu được cho ăn uống đầy đủ. Tôi đi đến thùng lớn đựng cát mịn và cẩn thận lau sạch bát của mình một lần nữa, lấy chổi và quét sạch cát mà tôi đã làm đổ trên sàn. Tôi quay lại và cúi đầu về phía ông. Trước sự ngạc nhiên hài lòng của ông, tôi đi ra ngoài.

Tôi đi đến cuối hành lang, tựa tay vào tường và nhìn ra phía ngoài. Bên dưới chỗ tôi là đầm lầy, xa hơn một chút là dòng suối đang chảy. Nhưng tôi đang nhìn qua Kashya Linga, về phía chiếc thuyền vì hôm nay người lái đò có vẻ bận rộn hơn bình thường. Ông ấy đứng đó dựa vào mái chèo của mình, chăm chỉ khua nước ra xa. Chiếc thuyền làm bằng da bò Tây Tạng của ông dường như đang chất đầy người và hành lý của họ. Tôi tự hỏi rốt cuộc là sao, tại sao lại có nhiều người tới như vậy? đổ xô đến Thành phố Thần thánh của chúng tôi. Sau đó, tôi nhớ đến người Nga, người Nga đã gây rất nhiều áp lực lên đất nước chúng tôi, vì người Anh cũng đang gây náo loạn. Và bây giờ người Nga đang đưa rất nhiều gián điệp vào Lhasa, cải trang thành các thương nhân và nghĩ rằng chúng tôi là những người bản xứ ngu dốt tội nghiệp, sẽ không bao giờ biết được. Họ quên rằng, hoặc có lẽ thậm chí không bao giờ biết, rằng nhiều Lạt ma có khả năng ngoại cảm và thấu thị; sẽ biết họ đang nghĩ gì như chính họ biết.

Tôi thích đứng nhìn và quan sát tất cả các loại người khác nhau, và để phân tích suy nghĩ của họ. Xác định xem họ tốt hay xấu. Luyện tập thì dễ dàng thôi, nhưng bây giờ không phải là lúc để đứng nhìn người khác, tôi muốn được gặp Sư phụ của mình, tôi muốn có thể được nằm xuống. Chân tôi bị đau và tôi thực sự mệt mỏi. Thầy hướng dẫn của tôi đã phải đi xa đến tận Trại Hoa hồng trước khi tôi thực sự đủ khỏe để bắt đầu công việc của mình. Thực ra, lẽ ra tôi phải nằm trong chăn của mình trên nền nhà thêm một tuần nữa. Nhưng Chakpori – mặc dù nó là một nơi tốt – nó thực sự không chào đón những cậu bé bị ốm, những người có vết thương lâu lành, và những người phá vỡ qui tắc thông thường. Vì vậy, tôi đã phải đến Potala, nơi thật kỳ lạ, có nhiều phương tiện cho sự chú ý hơn là trong “Ngôi đền chữa bệnh” của chúng tôi.

Tại Chakpori, những sinh viên phù hợp được dạy nghệ thuật chữa lành. Chúng tôi được dạy tất cả về cơ thể, cách thức hoạt động của các bộ phận khác nhau trong cơ thể. Chúng tôi được dạy châm cứu, trong đó những chiếc kim rất mảnh sẽ được châm vào cơ thể để kích thích các trung khu thần kinh nhất định. Và chúng tôi được dạy về các loại thảo mộc, cách thu thập các loại thảo mộc sau khi xác định được chúng, làm thế nào để chuẩn bị, bảo quản và làm khô chúng. Ở Chakpori, chúng tôi có những tòa nhà lớn, trong đó các tu sĩ dưới sự hướng dẫn của các lạt ma luôn chuẩn bị thuốc mỡ và thảo dược. Tôi nhớ lần đầu tiên tôi nhìn thấy chúng.

Tôi ngó qua khe cửa, ngập ngừng, sợ hãi, không biết mình sẽ thấy gì, không biết ai sẽ thấy mình. Tôi tò mò bởi vì, mặc dù nghiên cứu của tôi chưa đạt được đến trạng thái là thảo dược, tôi vẫn rất quan tâm. Vì vậy, tôi nhìn chăm chú.

Căn phòng đó rộng, có mái và vì kèo cao, những thanh xà lớn kéo dài từ bên này sang bên kia gác trên các khung tam giác, có những sợi dây thừng thả xuống. Lúc đó tôi nhìn, không thể hiểu được mục đích của những sợi dây đó để làm gì. Sau đó, khi mắt tôi trở nên sắc bén hơn với khung cảnh nội thất hơi tối, tôi thấy đầu kia của sợi dây được gắn vào những túi da. Những chiếc túi da nếu được xử lý thích hợp sẽ cứng như gỗ. Mỗi chiếc túi da đều có một dòng chữ sơn trên đó, những dòng chữ đó chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi. Tôi quan sát và không ai để ý đến tôi, cho đến khi một vị lạt ma già quay lại và nhìn thấy. Ông ấy mỉm cười khá tử tế và nói, “Vào đi, cậu bé của ta, vào đi. Ta thực sự rất vui khi thấy một người còn rất trẻ đã quan tâm tới việc này. Mời vào”. Tôi ngập ngừng bước về phía ông. Ông đặt tay lên vai tôi, và trước sự ngạc nhiên của tôi, ông bắt đầu kể cho tôi nghe về nơi này, chỉ ra các loại thảo mộc khác nhau, cho tôi biết sự khác biệt giữa bột thảo mộc, trà thảo mộc và thuốc mỡ thảo mộc. Tôi thích ông già, ông ấy dường như đã được tẩm ngọt đáng kể bởi các loại thảo mộc của mình!

Ngay trước mặt chúng tôi là một chiếc bàn dài bằng đá, một loại đá khá thô. Tôi không muốn tìm hiểu đó là loại đá gì, nhưng có lẽ là đá hoa cương. Nó bằng phẳng và cao khoảng 15 foot x 6 foot, một phiến đá lớn chắc chắn. Dọc hai bên bàn đá, các nhà sư đang rất bận rộn rải những tảng thảo mộc, đó là từ duy nhất tôi có thể tìm được để mô tả chúng vì chúng dường như là những miếng thảo mộc vón cục, một khối thực vật màu nâu. Họ trải các loại thảo mộc này lên bàn, rồi dùng những miếng đá phẳng giống như cục gạch, họ ấn xuống các loại thảo mộc rồi kéo theo viên đá sang một bên. Khi họ nâng lên, tôi thấy các loại thảo mộc đã giập – xé nhỏ. Họ cứ thế tiếp tục và tiếp tục cho đến khi dường như chỉ còn lại một lớp cùi xơ. Đến giai đoạn đó, họ đứng lùi lại và các nhà sư khác tiến đến với những chiếc xô da, và cục đá có cạnh răng cưa. Rất cẩn thận, những nhà sư mới cạo cạo tất cả các chất và xơ vào trong cái xô da của họ. Sau khi hoàn thành, các nhà sư lúc đầu rải cát mịn lên mặt đá và bắt đầu chà xát bằng cục đá của họ, để làm sạch và đồng thời tạo những vết xước mới nhằm giữ các loại thảo mộc để chúng có thể được cắt nhỏ.

Các nhà sư mang những chiếc xô bằng da chứa các vật liệu xơ đến phía xa của căn phòng lớn, chỗ đó bây giờ tôi thấy, có những vạc nước đang bốc khói. Họ lần lượt lấy xô của mình và đổ hết những thứ bên trong vào một trong những chiếc vạc. Tôi thích thú khi thấy nó đang sủi bọt và bốc hơi, nhưng ngay khi cho chất xơ mới vào thì điểm sôi dừng lại. Vị lạt ma già dẫn tôi qua đó và nhìn vào trong. Rồi ông cầm một cây gậy và khuấy chúng lên, nói: “Nhìn này! Chúng ta đang đun sôi thứ này, chúng ta tiếp tục đun sôi nó cho đến khi nước cạn, và thu được một loại xi-rô đặc. Ta sẽ cho con thấy những gì chúng ta làm với nó.

Ông dẫn tôi qua một phần khác của hội trường, và ở đó tôi thấy những chiếc lọ lớn chứa đầy xi-rô, tất cả đều được dán nhãn với những đặc điểm nhận dạng khác nhau. “Cái này”, ông lưu ý, chỉ vào một cái lọ cụ thể, “là thứ chúng ta đưa cho những người bị sổ mũi. Họ uống có một lượng nhỏ và mặc dù mùi vị không dễ chịu lắm nhưng nó dễ chịu hơn nhiều so với bị sổ mũi. Dù sao thì nó cũng chữa lành cho người ta!” Ông cười khúc khích rất hài hước, rồi dẫn tôi đến một chiếc bàn khác ở phòng bên cạnh. Tại đây tôi thấy một nhóm tu sĩ đang làm việc trên một băng ghế đá, trông như là một cái máng nông. Họ dùng mái chèo bằng gỗ trong tay và đang trộn lẫn một đống thứ dưới sự giám sát của một lạt ma khác. Vị lạt ma già đang hướng dẫn tôi một chuyến du lịch thú vị, nói, “Ở đây chúng ta có dầu khuynh diệp, cùng với dầu long não. Chúng ta trộn thứ đó với dầu ô liu đắt tiền được nhập khẩu, và sau đó với những chiếc muôi bằng gỗ này, các nhà sư sẽ khuấy mọi thứ lên và trộn với bơ. Bơ tạo thành một chất nền tốt cho thuốc mỡ. Khi chúng ta gặp những người bị đau ngực, họ sẽ cảm thấy dễ chịu hơn khi xoa thứ này lên ngực và lưng họ”. Tôi thận trọng đưa một ngón tay chạm vào một vết nhỏ trên mép máng. Tôi ngửi nó một cách cẩn thận hơn nữa, và tôi cảm thấy mắt mình thậm chí như bị lé. Cái mùi của nó dường như thiêu đốt tôi, dường như phổi tôi sắp bị đốt cháy từ trong ra ngoài. Tôi sợ phải ho, mặc dù tôi rất muốn, nếu không tôi có thể bị nổ tung. Vị lạt ma già vừa cười vừa nói: “Bây giờ nếu bôi cái đó lên mũi con, nó sẽ làm tróc da khỏi lỗ mũi. Đó là thứ cô đặc, nên phải được pha loãng với nhiều bơ hơn.”

Xa hơn nữa, các nhà sư đang tước đầu lá của một loại cây khô nào đó, và cẩn thận sàng nó qua một tấm vải giống như một tấm lưới rất khít. “Những nhà sư này đang chuẩn bị những loại trà đặc biệt. Trà có nghĩa là một hỗn hợp các loại thảo mộc có thể uống được. Loại trà đặc biệt này,” ông quay lại và chỉ tay, “là một loại trà chống co thắt và nó giúp giảm đau trong trường hợp co giật thần kinh. Khi con đến đây và thực hiện tất cả những việc này, con sẽ thấy vô cùng thú vị”. Ngay sau đó có người gọi ông, ông nói trước khi rời đi, “Hãy quan sát xung quanh, chàng trai của ta, hãy quán sát xung quanh. Ta thực sự vui mừng khi thấy một người rất quan tâm đến nghệ thuật của chúng ta”. Nói rồi ông quay đi và vội vã sang phòng khác.

Tôi lang thang, khịt mũi đánh hơi hết cái này đến cái khác. Tôi cầm một loại bột đặc biệt và ngửi nó, mạnh đến nỗi nó bay lên mũi và xuống cổ họng, khiến tôi ho và ho mãi, cho đến khi một vị lạt ma khác đến đưa tôi uống một tách trà, đó cũng là một thứ thú vị.

Tôi hồi phục lại sau sự cố đó, và đi đến một bức tường phía xa, nơi có một cái thùng lớn. Tôi nhìn nó và ngạc nhiên vì nó dường như chứa đầy vỏ cây, một loại vỏ cây trông rất lạ mắt, loại vỏ cây mà tôi chưa từng thấy trước đây. Tôi chạm vào một mảnh và nó vỡ vụn trên ngón tay của tôi. Tôi hơi ngạc nhiên nghiêng đầu, vì không hiểu những mẩu vỏ cây cũ kỹ bẩn thỉu như vậy sẽ có ích lợi gì. Nó thô ráp và bẩn hơn bất cứ thứ gì tôi từng thấy ở bất kỳ công viên nào chỗ chúng tôi. Một lạt ma nhìn tôi, đi tới và nói, “Vậy là con không biết đây là thứ gì sao?” “Không, thưa Đức Lạt Ma Y khoa đáng kính,” tôi trả lời, “đối với con nó trông như là rác”. Ông cười về nhận xét này, rất thích thú nói: “Đó là, chàng trai trẻ ạ, là một loại vỏ cây được sử dụng cho những căn bệnh phổ biến nhất trên thế giới ngày nay. Một loại vỏ cây có tác dụng giảm đau, và đã cứu sống nhiều người. Con có đoán được nó là gì không? Bệnh phổ biến nhất là gì?”

Ông thực sự làm tôi bối rối. Tôi nghĩ tới nghĩ lui, không thể đưa ra đáp án hợp lý nào, tôi trả lời ông như thế. Ông mỉm cười nói với tôi. “Táo bón, chàng trai trẻ, táo bón. Lời nguyền lớn nhất của thế giới. Nhưng đây là một loại vỏ cây thiêng liêng mà chúng ta nhập khẩu từ các thương nhân Ấn Độ. Nó được gọi là vỏ cây thiêng, bởi vì nó đến từ một đất nước rất, rất xa xôi, Brazil. Nơi đó người ta gọi nó là cascara sagrada, nghĩa là vỏ cây thiêng. Chúng ta sử dụng nó, theo cách như một loại trà. Hoặc trong những trường hợp đặc biệt, chúng ta đun sôi nó, sôi cho đến khi chúng ta đạt được sản phẩm chưng cất mà khi trộn với một hỗn hợp nhất định với phấn và đường, có thể ép nó thành dạng viên. Cái này dành cho người nào không thể thưởng thức vị chát của nó theo kiểu trà đâu”. Ông cười với tôi, rõ ràng là hài lòng trước sự quan tâm của tôi, điều này thực sự thú vị.

Vị lạt ma già tôi gặp lúc đầu vội vàng quay lại, hỏi tôi thế nào rồi, rồi ông mỉm cười khi thấy tôi vẫn đang giữ một ít cascara sagrada. “Nhai đi, chàng trai của ta, nhai xem nào. Nó sẽ rất tốt cho con, nó sẽ chữa khỏi mọi cơn ho cho con, vì con sẽ sợ ho sau khi nhai thứ đó!” Ông ấy cười khúc khích như một gã yêu tinh nhỏ, mặc dù là một Lạt ma y học cao cấp nhưng ông ấy vẫn là một người đàn ông có vóc dáng nhỏ bé.

 “Chỗ này, ở đây này”, ông nói, “nhìn thứ này, nó là từ đất nước chúng ta. Chúng ta gọi nó là cây Du trơn, vỏ cây du trơn. Thứ này rất hữu ích cho những người bị rối loạn dạ dày. Chúng ta trộn nó lên, chế tạo thành một hỗn hợp sệt, và người bệnh bất hạnh dùng nó làm dịu cơn đau của họ. Nhưng con chờ đã, chàng trai của ta, con hãy chờ đã. Chỉ chút xíu sau khi con vừa đến đây, là ta chắc chắn rằng chúng ta sẽ khám phá ra con có một tương lai tuyệt vời phía trước.”

Tôi cảm ơn ông và vị lạt ma kia vì lòng tốt của họ, rồi tôi rời đi sau lần viếng thăm đầu tiên của rất nhiều lần sau đó.

Nhưng có tiếng bước chân vội vã, một cậu bé đến gửi lệnh yêu cầu tôi đến gặp Thầy hướng dẫn của tôi, Lạt ma Mingyar Dondup. Người đang đợi tôi trong khu vực riêng của ông, và giờ đây gần như cũng là của tôi, bởi vì tôi sẽ có một phòng cạnh đó. Vì thế, tôi quấn chặt chiếc áo choàng quanh người, cố gắng trông sao cho gọn gàng và vội vã đi nhanh nhất có thể, vội vã đi xem tôi sẽ ở chỗ nào.

Chiếc áo Cà sa 10

Người dịch: Dũng.TTQ

Chương 10

Chương 10

Sớm sau đó, một cậu bé đến hành lang chỗ chúng tôi hét lên “Lobsang! Lobsang!” Tôi chạy nhanh qua phòng và gặp cậu bé ở cửa khi nó chuẩn bị bước vào. “Phù phù!” cậu kêu lên, lau mồ hôi tưởng tượng trên trán “Tớ đã tìm cậu ở khắp nơi. Cậu đang ở ẩn hay làm gì đó? Thầy hướng dẫn của cậu muốn gặp cậu”. “Ngài ấy trông như thế nào?” Tôi hỏi, trong lòng có chút lo lắng. “Trông giống như thế nào ư? Trông giống như thế nào là sao? Cậu nghĩ ngài sẽ trông ra sao? Cậu mới gặp ngài ấy vài ngày trước mà, cậu bị sao vậy thế, ốm chăng?” Cậu bé đi lững thững lẩm bẩm về sự ngu ngốc… Tôi quay đi, kéo áo choàng thẳng thớm, và chắc rằng cái bát và hộp bùa của mình đã ở đúng vị trí. Rồi tôi bước lên hành lang.

Thật thú vị khi được rời khỏi khu dành cho nam sinh với những bức tường quét vôi lem nhem, để bước vào khu dành cho các Lạt ma trang trí lộng lẫy hơn nhiều. Trong lúc đi khẽ khàng, tôi có thể nhìn thấy hầu hết các phòng đã ngang qua; hầu hết các Lạt ma đều mở cửa. Chỗ này, một cụ già đang lần hạt và niệm không ngừng: “Om! Mani padme hum!” Một người khác đang cung kính giở các trang của một cuốn sách cũ kỹ nào đó, không ngừng tìm kiếm một ý nghĩa khác từ Thánh Kinh. Tôi khá phiền lòng khi thấy những ông già này cố gắng tìm đọc các “ẩn ý” – cố gắng tìm đọc những thông điệp không được thể hiện. Sau đó, họ sẽ bùng nổ với: “Một cách giải thích mới về Thánh Kinh, của Lạt ma này nọ”. Một cụ ông rất già, với bộ râu trắng lởm chởm, đang nhẹ nhàng xoay Bánh xe Cầu nguyện và ngâm nga một mình. Nột người khác đang diễn thuyết hùng hồn với chính mình, đang tập luyện cho một cuộc tranh luận thần học sắp tới mà ông ta sẽ tham gia dẫn dắt.

 “Bây giờ đừng có mang bụi bẩn lên chỗ sàn nhà sạch sẽ của tôi đấy, đồ trẻ con!” một tu sĩ quét dọn già cáu kỉnh nói, khi ông ấy tựa vào cây chổi của mình và nhìn tôi đầy ác ý, “Ta không làm việc ở đây cả ngày vì những người như mi đâu!” “Đi và nhảy ra khỏi cửa sổ đi, lão già!” Tôi nói một cách thô lỗ khi đi ngang qua ông ta. Ông ta vươn người ra cố tóm lấy tôi, nhưng vấp phải cán chổi dài, ngã xuống sàn với một tiếng uỵch vang dội. Tôi bước nhanh để vượt qua trước khi ông ta có thể đứng dậy. Không ai để ý. Những Bánh Xe Cầu Nguyện vẫn vo ve và lách cách, Người đang tuyên bố vẫn tuyên bố, và những giọng nói vẫn ngâm nga những câu thần chú.

Trong một căn phòng gần đó, một ông già hắng giọng phát ra những âm thanh khủng khiếp. “Khục! Khục! Ua!” ông ta đang nỗ lực để giảm bớt. Tôi bước tiếp. Những hành lang này thật dài, và tôi phải đi từ khu vực của đời sống lạt ma thấp nhất, đến khu vực gần như cao nhất, khu vực của các Lạt ma rất cao cấp. Bây giờ, khi tôi tiến tới khu vực “tốt hơn”, càng có nhiều cánh cửa đóng. Cuối cùng, tôi rẽ khỏi hành lang chính bước vào một khu nhà phụ nhỏ, lãnh địa của “Những Người Đặc Biệt.” Tại đây, nơi danh dự, Thầy Hướng dẫn của tôi cư trú mỗi khi tới Potala.

Tim đập nhanh, tôi dừng lại trước một cánh cửa và gõ. “Mời vào!” một giọng nói thân yêu cất lên. Tôi bước vào và thực hiện nghi lễ cúi đầu trước Nhân vật sáng ngời đang ngồi quay lưng về phía cửa sổ. Lạt ma Mingyar Dondup mỉm cười tử tế với tôi, và nhìn tôi rất cẩn thận để xem tôi đã sống như thế nào trong khoảng bảy ngày qua. “Ngồi xuống, Lobsang, ngồi xuống đi!”, ngài nói, chỉ vào một cái đệm đặt trước mặt ông. Chúng tôi ngồi một lúc trong khi ông hỏi tôi những câu hỏi, khó trả lời nhất, một số khác cũng thế! Người đàn ông vĩ đại này đã lấp đầy tôi bằng những cảm xúc yêu thương và tận tụy sâu sắc nhất. Tôi không muốn gì hơn là được liên tục ở bên người.

 “Đấng Tối Cao rất hài lòng về con,” ông nhận xét, rồi nói thêm, “và ta cho rằng điều đó cần phải có một cách ăn mừng nào đấy.” Ông đưa tay ra và lắc chiếc chuông bạc nhỏ của mình. Một nhà sư phục vụ bước vào và mang đến một chiếc bàn thấp, được chạm khắc công phu và có nhiều lớp sơn màu. Tôi luôn sợ bị làm xước hay để lại dấu vết xấu xí. Cái bàn đó được đặt ở bên phải Thầy Hướng dẫn của tôi. Mỉm cười với tôi, Lạt ma quay sang vị tu sĩ phục vụ và nói: “Anh đã chuẩn bị sẵn chiếc bàn thường cho Lobsang chưa?” “Có, thưa Thầy,” người đàn ông trả lời. “Con sẽ lấy nó ngay bây giờ.” Anh ta rời đi, chẳng mấy chốc trở lại với một chiếc bàn rất đơn giản, có những “đồ trang trí” đẹp nhất so với tất cả; nó chất đầy những thứ từ Ấn Độ. Những chiếc bánh ngọt dẻo được phủ một loại xi-rô nào đó sau đó được rắc đường, quả óc chó ngâm, hạt dẻ đặc biệt được mang đến từ một đất nước xa xôi, và nhiều thứ khác khiến trái tim tôi thích thú. Vị sư phục vụ khẽ mỉm cười khi đặt bên cạnh tôi một lọ lớn đựng các loại thảo mộc mà chúng tôi dùng khi bị chứng khó tiêu.

Một nhà sư phục vụ khác bước vào mang theo những chiếc cốc nhỏ và một bình lớn đầy trà Ấn Độ bốc khói. Theo ra hiệu từ Thầy Hướng dẫn, họ rút lui và tôi đã có một sự thay đổi thú vị khỏi món Tsampa! Tôi không bận tâm nghĩ về những chú tiểu khác, những người có lẽ chưa bao giờ trong đời họ nếm trải bất cứ thứ gì ngoại trừ tsampa. Tôi biết khá rõ rằng có lẽ tsampa sẽ là thức ăn duy nhất của họ trong suốt thời gian họ sống. Và tôi tự an ủi mình với ý nghĩ rằng, nếu họ đột nhiên nếm thử những món ăn kỳ lạ này từ Ấn Độ, thì nó sẽ không làm họ hài lòng. Tôi biết rằng tôi sẽ gặp khó khăn trong cuộc sống, tôi biết rằng chẳng bao lâu nữa sẽ có những món ăn rất khác biệt dành cho tôi. Vì vậy, với tính tự mãn tự mãn của một cậu bé, tôi nghĩ chẳng có gì sai khi nếm thử những thứ dễ chịu, để bù đắp cho những điều khó chịu mà tôi đã phải chịu đựng. Vì vậy, tôi đã ăn nhiều hơn mức cần thiết bằng sự thanh thản hoàn toàn. Người Thầy của tôi vẫn im lặng, và tất cả những thứ ông dùng chỉ là trà – loại của Ấn Độ. Nhưng cuối cùng, với một tiếng thở dài vô cùng hối tiếc, tôi quyết định rằng tôi không thể ăn thêm một mẩu bánh nào nữa. Thực tế là chỉ nhìn thấy món ăn khốn khổ đó thôi là tôi đã bắt đầu thấy ghê tởm, nó tô điểm cho cách nhìn của tôi, và tôi cảm thấy– chà–như thể kẻ thù đang chiến đấu bên trong mình. Tôi nhận thấy có một số đốm sáng không mong muốn đang trôi nổi trước mắt tôi, tôi không còn gì để ăn nữa. Chẳng lâu sau tôi phải rút lui đến “một chỗ khác”, vì thức ăn làm bụng tôi căng lên khá đau!

Khi tôi quay lại, hơi nhợt nhạt, nhẹ nhõm hơn đáng kể và hơi run, Thầy ướng dẫn của tôi vẫn đang ngồi, vẫn bình tĩnh, rất hiền lành. Ông mỉm cười với tôi khi tôi ổn định lại và nói, “Chà! Bây giờ con đã uống và cũng xả gần hết trà. Ít nhất con cũng đã có ký ức về nó, và điều đó có thể giúp ích cho con. Chúng ta sẽ nói về nhiều điều.” Tôi ổn định chỗ ngồi thật thoải mái. Đôi mắt của ông đảo khắp tôi, chắc chắn là đang thắc mắc vết thương của tôi thế nào. Sau đó ông nói với tôi: “Thầy đã nói chuyện với Đấng tối cao, Người đã nói với ta về việc con, ờ, bay lên Mái Vàng. Ngài đã kể cho ta nghe tất cả những điều đó, nói với ta những gì Ngài ấy đã thấy, và nói với ta rằng con đã mạo hiểm có thể bị trục xuất khi nói cho Ngài biết sự thật. Ngài rất hài lòng về con, rất hài lòng với những báo cáo mà Ngài có về con, rất hài lòng với những gì Ngài đã thấy. Vì Ngài lúc đó ngài đã thấy con khi con đang trông ngóng ta. Và bây giờ ta có những mệnh lệnh đặc biệt về con”. Lạt ma nhìn tôi, khẽ mỉm cười, có lẽ thích thú với biểu hiện mà tôi biết là nằm ngay trên khuôn mặt mình. Nhiều rắc rối hơn rồi, tôi nghĩ, nhiều chuyện đau khổ hơn sẽ đến, nhiều khó khăn hơn phải chịu đựng từ bây giờ, để chúng không tồi tệ nữa khi so sánh với những thứ trong tương lai. Tôi phát ốm vì những khó nhọc, tôi nghĩ thầm. Tại sao tôi không được như một số người đã thả diều trong trận chiến, hoặc lái những chiếc hộp hơi nước với rất nhiều binh lính bên trong? Tôi cũng nghĩ, tôi muốn phụ trách một trong những vật bằng kim loại nổi trên mặt nước, và đưa rất nhiều người đi lại giữa các quốc gia. Sau đó, sự tập trung của tôi lại lang thang, và tôi suy nghĩ về câu hỏi: làm thế nào chúng có thể là bằng kim loại nhỉ? Bất cứ ai cũng biết rằng kim loại nặng hơn nước, và do đó sẽ chìm. Tôi quả quyết rằng phải có một cái gì đó để giữ nó, chúng không thể là kim loại được, nhà sư đó chắc hẳn đã chỉ kể câu chuyện cho tôi. Tôi ngước lên và thấy Thầy hướng dẫn đang cười mình; ông ấy đã theo dõi suy nghĩ của tôi bằng thần giao cách cảm, và ông ấy thực sự rất thích thú.

 “Những con diều đó là máy bay, con rồng hơi nước là một đoàn tàu hỏa, và những hộp sắt kia là những con tàu, và – đúng vậy – những con tàu bằng sắt thực sự nổi được. Ta sẽ nói với con tất cả về chúng sau, nhưng hiện tại chúng ta tâm trí chúng ta cần có những điều khác. Ông rung chuông lần nữa, và một nhà sư phục vụ bước vào rồi dọn chiếc bàn trước mặt tôi, mỉm cười tội nghiệp trước tất cả sự tàn phá mà tôi đã gây ra với những món ăn từ Ấn Độ. Thầy hướng dẫn nói rằng chúng tôi muốn uống thêm trà, và chúng tôi đợi trong khi một mẻ mới được mang đến. “Ta thích trà Ấn Độ hơn trà Trung Quốc,” Thầy nói. Tôi đồng ý với ông, trà Trung Quốc luôn làm tôi phát ngấy, tôi không biết tại sao vì rõ ràng tôi đã quen với trà Trung Quốc hơn, nhưng trà Ấn Độ có vẻ dễ chịu hơn. Cuộc thảo luận của chúng tôi về vấn đề trà bị gián đoạn bởi vị tăng phục vụ mang trà mới đến. Ông ấy rút lui khi Thầy tôi rót tách trà mới.

 “Đức Ngài đã lệnh rằng con sẽ được rút khỏi các lớp học tiêu chuẩn thông thường. Thay vào đó, con chuyển đến một căn phòng bên cạnh căn của ta, và con sẽ được ta cùng các lạt-ma chuyên gia hàng đầu chỉ dạy. Con có nhiệm vụ bảo tồn phần lớn kiến thức cổ xưa, và sau này con sẽ phải viết lại phần lớn kiến thức đó, vì những Nhà tiên tri tỉnh táo nhất của chúng ta đã dự đoán tương lai của đất nước chúng ta, rằng chúng ta sẽ bị xâm lược; và nhiều thứ nằm trong tu viện này cùng những tu viện khác sẽ bị tàn phá và hủy hoại. Thông qua sự khôn ngoan của Đấng Tối cao, một số Hồ sơ nhất định đã được sao chép, các bản sao để tại đây sẽ bị hủy còn bản gốc sẽ được mang đi rất xa, rất xa mà không kẻ xâm lược nào có thể tiếp cận được. Đầu tiên, con sẽ phải được dạy bao quát về nghệ thuật siêu hình.” Ồng ngừng nói và đứng dậy, đi sang phòng khác. Tôi nghe tiếng sột soạt, rồi ông quay lại mang theo một chiếc hộp gỗ rất đơn giản trên tay và đặt trên chiếc bàn chạm khắc. Ông ngồi xuống trước mặt tôi và im lặng một lúc.

 “Nhiều năm trước mọi người rất khác so với bây giờ. Nhiều năm trước, con người có thể kêu gọi các quy luật tự nhiên và sử dụng các giác quan mà loài người hiện đã mất, ngoại trừ một số trường hợp hiếm hoi. Nhiều trăm thế kỷ trước, con người đã có khả năng ngoại cảm và thấu thị, nhưng thông qua việc sử dụng những sức mạnh đó cho mục đích xấu xa, con người nói chung đã mất khả năng này, toàn bộ những sức mạnh đó giờ đây đã bị tiêu hao. Tệ hơn nữa, con người hiện nay thường phủ nhận sự tồn tại của những sức mạnh như vậy. Con sẽ thấy rằng khi con di chuyển đến các quốc gia khác nhau, rằng khi con rời khỏi Tây Tạng và Ấn Độ, sẽ không khôn ngoan khi nói về khả năng thấu thị, du hành bằng thể vía, bay lên, hoặc thần giao cách cảm. Bởi vì mọi người sẽ chỉ nói “Chứng minh đi, hãy chứng minh, ngươi chỉ kể chuyện thần bí, ngươi chỉ nói vớ vẩn. Không có cái nào giống như vầy, như kia, như cái gì khác, nếu mà có thì khoa học sẽ phát hiện ra nó.”

Ông thu mình lại giây lát, một bóng đen lướt qua nét mặt. Thầy đã đi nhiều nơi, và mặc dù thầy trông trẻ trung, à, thực ra ông trông không có tuổi, người ta không thể nói ông là một ông già hay một thanh niên. Da thịt ông săn chắc và khuôn mặt khá là không có nếp nhăn, ông tỏa ra sự khỏe mạnh và sức sống. Tôi được biết ông đã đi đến tận Châu Âu xa xôi, đến Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ. Tôi cũng biết rằng ông đã có một số trải nghiệm tuyệt vời nhất. Đôi khi trong lúc ngồi, ông nhìn vào một số tạp chí được mang từ vùng núi từ Ấn Độ sang, rồi thở dài buồn bã trước sự điên rồ của loài người đang có chiến tranh. Có một tạp chí đặc biệt mà ông thực sự quan tâm, và bất cứ khi nào có thể, ông đều mang nó từ Ấn Độ về. Đó là một loại tạp chí đặc biệt tên là London Illustrated. Tôi thấy những bản tạp chí lẻ là một nguồn thông tin tuyệt vời, cho tôi những bức tranh về những điều hoàn toàn ngoài tầm hiểu biết của mình. Tôi quan tâm đến những gì được gọi là “Quảng cáo”, và bất cứ khi nào có thể, tôi cố gắng đọc các bức tranh. Rồi sau đó, khi có cơ hội, tôi sẽ tìm một người hiểu ngôn ngữ lạ để nói cho tôi biết về nội dung.

Tôi ngồi và nhìn Thầy. Thỉnh thoảng tôi nhìn vào chiếc hộp gỗ ông mang ra và tự hỏi nó có thể chứa cái gì. Đó là một cái hộp bằng gỗ khá xa lạ với tôi. Nó có tám cạnh nên gần giống như bất cứ thứ gì như vậy, có dạng tròn. Tôi ngồi một lúc tự hỏi tất cả chuyện này là thế nào, có gì trong đó, tại sao ông đột nhiên chìm vào im lặng. Rồi ông nói: “Lobsang, con phải phát triển khả năng thấu thị tự nhiên ở mức độ rất cao của mình, lên một trạng thái thậm chí còn cao hơn nữa, và điều đầu tiên là phải biết điều này.” Ông chỉ tay về phía chiếc hộp gỗ tám mặt một cách ngắn gọn, như thể nó sẽ giải thích mọi thứ, nhưng việc này chỉ khiến tôi rơi vào trạng thái bối rối sâu sắc hơn. “Ta có đây một món quà sẽ được trao cho con theo lệnh của chính Đấng Tối Cao. Nó được trao cho con để sử dụng, và với nó con có thể làm được nhiều điều tốt đẹp.” Ông nhoài người về phía trước và dùng hai tay cầm chiếc hộp gỗ lên, nhìn nó một lúc trước khi đặt nó vào tay tôi. Ông đặt nó vào tay tôi rất cẩn thận và giữ hai bàn tay ông gần đó, đề phòng trường hợp tôi – như một cậu bé – vụng về làm rơi nó. Nó có trọng lượng đáng kinh ngạc, và tôi nghĩ chắc phải có một cục đá bên trong thì mới nặng như vậy.

 “Mở nó ra, Lobsang!” Lạt ma Mingyar Dondup nói. “Con sẽ không nhận được bất kỳ thông tin nào về nó nếu chỉ nhìn cái hộp.”

Tôi ngơ ngác xoay cái thứ này trong tay, hầu như không biết làm thế nào để mở nó ra vì nó có tám mặt và tôi không thể nhìn thấy mặt nắp khớp vào như thế nào. Nhưng sau đó tôi đã nắm được phần trên và bằng cách nào đó đã vặn nó một nửa. Phần hình vòm trên cùng rời ra vào tay tôi. Tôi nhìn kỹ và thấy nó chỉ là cái nắp, nên tôi đặt nó xuống bên cạnh để tập trung vào thứ bên trong hộp. Tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy là một cục vải, vì thế tôi cầm và nhấc nó ra, nhưng sức nặng của nó thật đáng kinh ngạc. Tôi cẩn thận trải áo choàng của mình ra để nếu có bất cứ thứ gì lỏng lẻo bên trong sẽ không bị rơi xuống sàn. Sau đó với hai tay trên chiếc hộp, tôi lật ngược nó và thả trọng lượng của thứ bên trong lên trên những ngón tay mình. Tôi đặt cái hộp trống xuống, và dành sự chú ý của mình vào vật thể hình cầu được bọc trong mảnh vải đen.

Ngón tay tôi bận rộn mở cái thứ đó ra, tôi há hốc mồm vì kinh ngạc, vì bây giờ điều được tiết lộ cho tôi là một viên pha lê rất tuyệt vời, hoàn mỹ. Nó thực sự là pha lê, không giống như thủy tinh mà các thầy bói sử dụng, nhưng thứ pha lê này tinh khiết đến mức người ta khó có thể nhìn thấy điểm bắt đầu và điểm kết thúc của nó, nó gần giống như một quả cầu hư vô khi tôi cầm nó trên tay. Thật là, cho đến khi tôi ngẫm về trọng lượng, trọng lượng khá ghê gớm. Nó nặng bằng một hòn đá cùng kích cỡ.

Thầy hướng dẫn nhìn tôi mỉm cười. Khi tôi nhìn vào mắt ông, ông nói: “Lobsang, con đã chạm đúng cách, con đang giữ nó đúng cách. Bây giờ con sẽ phải rửa nó trước khi có thể sử dụng nó, và con cũng sẽ phải rửa tay nữa!” Ông kêu lên. “Rửa sạch nó sao, thưa Lạt ma đáng kính!” tôi nói trong sự ngạc nhiên. “Tôi rửa nó để làm gì? Nó hoàn toàn rõ ràng, hoàn toàn sạch sẽ mà.” “Đúng rồi, nhưng bất kỳ viên pha lê nào cũng cần phải được rửa sạch khi nó đổi chủ. Bởi vì viên pha lê này đã được ta sử dụng, sau đó Đấng Tối Cao sử dụng nó, và ta lại sự dụng nó. Vì vậy, bây giờ, con không muốn đào sâu vào quá khứ hay tương lai của ta, và tất nhiên, việc đào sâu vào quá khứ, hiện tại hoặc tương lai của Đấng Tối Cao là bị cấm. Thế nên, hãy đi qua phòng khác,” ông chỉ tay về hướng tôi nên đi, “và rửa tay, sau đó rửa viên pha lê, và đảm bảo rằng con đổ nước lên nó thành nước chảy. Ta sẽ đợi ở đây đến khi con hoàn thành.”

Rất cẩn thận, tôi bọc viên pha lê lại và nới mình ra khỏi chiếc đệm đang ngồi, đặt viên pha lê vào giữa để nó không rơi xuống đất. Khi chân vững trở lại ít nhiều, tôi với tay nhấc cái bọc bọc vải và rời khỏi phòng. Nó là một thứ tuyệt đẹp khi để trong nước. Khi tôi xoa tay xung quanh dưới làn nước, nó dường như bừng sáng sự sống, cảm giác như thể nó là một phần của tôi, cảm giác như thể nó thuộc về tôi, và thực sự bây giờ đã là như vậy. Tôi nhẹ nhàng đặt nó sang một bên và rửa tay mình, đảm bảo rằng tôi đã sử dụng nhiều cát mịn, sau đó tôi rửa sạch tay và quay lại rửa lại viên pha lê, giữ nó dưới một chiếc bình úp ngược trong khi nước bắn tung tóe lên viên pha lê tạo thành một cầu vồng nhỏ khi những giọt nước rơi xuống bị ánh sáng mặt trời chiếu vào. Với viên pha lê sạch sẽ, và tay của tôi cũng sạch sẽ, tôi trở lại phòng Thầy hướng dẫn của tôi, Lạt ma Mingyar Dondup.

 “Con và ta sẽ gần gũi hơn rất nhiều trong tương lai, chúng ta sẽ sống cạnh nhau, vì Đấng Tối Cao đã ra lệnh như vậy. Con không cần phải ngủ trong ký túc xá sau đêm nay. Các sắp xếp đang được thực hiện. Khi chúng ta trở lại Chakpori vào ngày mai, con sẽ có một phòng bên cạnh phòng ta. Con sẽ học với ta, và con sẽ học với các Lạt ma uyên bác, những người đã thấy và làm được nhiều trong việc du hành thể vía. Con cất giữ viên pha lê của mình trong phòng, và không được để cho ai khác chạm vào nó, vì sẽ mang lại ảnh hưởng khác tới nó. Bây giờ hãy dời đệm ngồi của con, và ngồi quay lưng lại với ánh sáng”.

Tôi vòng lại và ngồi quay lưng về phía ánh sáng. Tôi ngồi khá gần cửa sổ, cẩn thận nắm chặt viên pha lê trong tay, nhưng Thầy hướng dẫn không hài lòng. “Không, không, hãy chắc chắn sao cho không có tia sáng nào được chiếu vào viên pha lê, vì nếu vậy nó sẽ tạo ra những phản chiếu sai lạc bên trong. Cần phải không có điểm sáng nào trong viên pha lê, con phải nhận thức được nó, nhưng không phải là nhận thức chu vi chính xác của nó”. Ông đứng dậy, kéo tấm rèm bằng lụa dầu che cửa sổ, che bớt ánh nắng và khiến căn phòng tràn ngập ánh sáng xanh nhạt, gần như thể lúc chạng vạng tối.

Cần phải nói rằng chúng tôi có rất ít thủy tinh ở Lhasa, hay nói đúng hơn là rất ít thủy tinh ở Tây Tạng. Bởi vì tất cả thủy tinh phải được đưa qua núi trên lưng những thương nhân hoặc trên lưng những vật thồ của họ. Và trong những cơn bão bất ngờ bao vây thành phố kính của chúng tôi, nó sẽ bị vỡ tan ngay lập tức bởi những viên đá bị gió cuốn. Vì vậy, chúng tôi có cửa chớp làm bằng các chất liệu khác nhau, một số bằng gỗ và một số khác bằng lụa dầu hoặc tương tự, để chắn gió và chắn bụi, nhưng lụa dầu là tốt nhất vì nó cho phép ánh sáng mặt trời xuyên qua.

Cuối cùng, tôi đã đạt một vị trí mà Thầy hướng dẫn của tôi cho là phù hợp. Tôi đang ngồi xếp bằng hai chân, không phải trong tư thế hoa sen vì chân tôi đã bị tổn thương quá nhiều để có thể ngồi bằng tư thế đó. Tôi đang ngồi xếp bằng hai chân, với bàn chân nhô ra bên phải. Trong lòng tôi, hai bàn tay tôi khum khum giữ viên pha lê, để bên dưới sao cho tôi không thể nhìn thấy bàn tay của mình dưới các cạnh tròn của quả cầu. Đầu tôi cúi xuống, và tôi phải nhìn viên pha lê, hoặc nhìn vào trong viên pha lê mà không thực sự thấy, không thực sự tập trung. Thay vào đó, để nhìn chính xác vào trong viên pha lê, người ta phải tập trung mắt vào một điểm ở vô cực. Bởi vì nếu tập trung mắt trực tiếp vào viên pha lê, người ta sẽ tự động tập trung vào bất kỳ vệt mờ, hạt bụi hoặc bất kỳ ánh phản chiếu nào. Điều đó thường phá hủy hiệu ứng. Vì thế, tôi được dạy phải luôn tập trung vào một điểm nào đó ở vô cực trong khi đang dường như nhìn xuyên qua tinh thể.

Tôi nhớ lại trải nghiệm của mình trong ngôi đền, khi tôi nhìn thấy những linh hồn lang thang đi vào trong phạm vi đó, nơi chín vị lạt ma đang tụng kinh, chấm dứt mỗi lần tụng niệm trên một nén hương bằng tiếng chuông bạc leng keng.

Sư phụ mỉm cười với tôi và nói, “Bây giờ không có thời gian để nhìn hay bói cầu, vì con sẽ được dạy đúng cách, đây là trường hợp “thà chậm mà chắc”. Con muốn học cách cầm nó đúng cách, như thực tế là con đang làm bây giờ, nhưng con cần học các phương pháp cầm khác nhau cho những mục đích khác nhau. Nếu con muốn biết các vấn đề thế giới, con để viên pha lê trên giá đỡ, hoặc nếu con muốn đọc thông tin về một cá nhân, con lấy viên pha lê và để người hỏi cầm nó trước, sau đó con lấy nó từ anh ta, và nếu con được đào tạo bài bản, con có thể nhìn thấy những gì anh ta muốn biết.”

Ngay lúc đó sự huyên náo nổ ra ngay trên đầu chúng tôi; có những âm thanh sâu thẳm, ầm ầm, bất hòa của những chiếc tù và giống như tiếng bò Tây Tạng kêu trên đồng cỏ. Một âm thanh gào thét lên xuống tông giống như một nhà sư quá béo đang cố đi lạch bạch. Tôi không bao giờ có thể phân biệt được bất kỳ âm nhạc nào trong các tù và. Những người khác thì có thể, và họ nói với tôi rằng đó là vì tôi bị điếc nhạc! Sau tiếng tù và là tiếng kèn của tu viện, là tiếng chuông ngân và tiếng trống gỗ. Sư phụ tôi quay sang và nói: “Được rồi, Lobsang, tốt hơn hết là con và ta nên đến buổi lễ vì Đấng Tối Cao sẽ ở đó. Và theo phép lịch sự thông thường, chúng ta sẽ đi lễ vào buổi tối cuối cùng của chúng ta tại Potala này. Ta phải đến nhanh, con cứ đến với tốc độ của con. Nói đoạn, ông đứng dậy, vỗ nhẹ vào vai tôi rồi vội vã đi ra ngoài.

Tôi gói viên pha lê của mình rất cẩn thận, thực sự gói rất rất cẩn thận. Và sau đó với sự thận trọng tối đa, tôi đặt nó trở lại hộp gỗ tám cạnh. Tôi đặt cái hộp trên bàn cạnh chỗ ngồi của Thầy, Lạt ma Mingyar Dondup. Rồi tôi cũng đi theo xuống phía hành lang.

Các thầy tu cấp dưới, các nhà sư và các lạt ma đang vội vã đi tới từ mọi hướng. Điều này làm tôi liên tưởng đến một bầy kiến đang náo loạn lao tới. Mọi người dường như đang vội vàng để có thể có được vị trí tốt nhất trong lớp học. Tôi không vội, miễn là tôi đến được một vị trí nào đó và có thể ngồi mà không bị nhìn thấy, đó là tất cả những yêu cầu đối với tôi.

Âm thanh của tù và ngừng lại. Tiếng kèn trumpet kết thúc. Lúc này thác người vào Đền thờ đã giảm xuống thành dòng và tôi thấy mình đang theo ở cuối dòng. Đây là Đền Lớn, Ngôi Đền mà chính Đấng Tối Cao tham dự khi Ngài còn trong thời gian thực hiện những nhiệm vụ ở thế gian đến và hòa nhập với các Lạt ma.

Những cây cột vĩ đại chống đỡ mái dường như cao vút lên trong bóng tối của màn đêm. Phía trên chúng tôi là những đám khói hương luôn hiện hữu. Những màu xám, xanh lam và trắng, cuộn xoáy và trộn lẫn với nhau nhưng dường như không bao giờ tụ lại thành một hình bóng cụ thể. Tất cả những đám mây hương này dường như theo một cách nào đó, giữ lại dáng vẻ của riêng chúng.

Những cậu bé đang hối hả xung quanh, dùng những ngọn đuốc sáng rực thắp sáng ngày càng nhiều những chiếc đèn bơ. Chúng kêu xèo xèo, và rít lên, rồi bùng cháy. Đây đó có ngọn đèn không được thắp sáng đúng cách, vì trước tiên người ta phải làm tan chảy bơ để nó lỏng ra như dầu, nếu không thì cái bấc đáng lẽ phải nổi lên, thì chỉ cháy thành than rồi âm ỉ, khiến chúng tôi phải hắt hơi vì khói.

Cuối cùng số đèn được thắp đủ, và những nén hương khổng lồ được mang ra rồi cũng được đốt lên, sau đó dập tắt lửa để chúng đỏ rực và tỏa ra những đám khói lớn. Nhìn quanh, tôi thấy tất cả các Lạt ma đứng từng nhóm thành hàng đối diện nhau, hàng tiếp theo sẽ quay lưng vào nhau. Và cứ thế một hàng đối mặt với nhau, còn hàng tiếp theo quay lưng với nhau. Xa hơn là các nhà sư ngồi theo cách tương tự, và xa hơn nữa là các thầy tu. Các lạt ma có những chiếc bàn nhỏ cao khoảng một foot, trên đó đặt nhiều vật dụng nhỏ khác nhau, bao gồm chiếc chuông bạc luôn hiện diện; một số có trống gỗ. Khi buổi lễ bắt đầu, Giảng viên đứng ở bục giảng của mình sẽ đọc to những đoạn trong Thánh Kinh của chúng tôi, và các lạt ma và tu sĩ sẽ đồng thanh tụng kinh. Khi kết thúc mỗi đoạn, các lạt ma sẽ rung chuông của họ, trong khi những người khác gõ ngón tay vào trống. Hết lần này đến lần khác, để báo hiệu sự kết thúc của một phần đặc biệt nào đó của buổi lễ, sẽ có tiếng ầm ầm của những chiếc tù và đâu đó xa xa, đâu đó trong những hốc tối mờ của Đền thờ. Tôi dõi theo, nhưng đó chỉ là một cảnh tượng đối với tôi, đó chỉ là kỷ luật tôn giáo, và tôi quyết định một lúc nào đó khi có thời gian, sẽ hỏi Thầy hướng dẫn của mình tại sao cần phải trải qua các nghi lễ này. Tôi tự hỏi liệu nó có làm cho mọi người trở nên tốt đẹp hơn không? Vì tôi đã thấy nhiều nhà sư rất sùng đạo, thực sự rất tận tâm với việc đi lễ. Nhưng khi xa chùa, xa các buổi lễ, họ là những kẻ bắt nạt tàn bạo. Tuy nhiên, những người khác không bao giờ đến gần các ngôi đền lại tốt bụng và chu đáo, và sẽ luôn làm điều gì đó để giúp đỡ cậu bé đáng thương, đang hoang mang không biết phải làm gì tiếp theo, luôn sợ gặp rắc rối; Vì rất nhiều người lớn ghét bị hỏi bởi trẻ con.

Tôi nhìn vào trung tâm của Ngôi đền, vào trung tâm của nhóm Lạt ma, và tôi nhìn Đấng Chí Tôn tôn kính, kính yêu của chúng tôi đang ngồi đó thanh thản và tĩnh lặng, với hào quang tâm linh rất mạnh mẽ. Và tôi quyết tâm rằng tôi sẽ luôn cố gắng làm theo mẫu hình của Ngài và Thầy hướng dẫn của tôi, Lạt ma Mingyar Dondup.

Buổi lễ cứ tiếp tục, và tôi sợ rằng mình đã ngủ quên sau cây cột, vì tôi không biết gì nữa cho đến khi có tiếng chuông lớn và tiếng tù và lại vang lên. Rồi sau đó là âm thanh của đám đông đứng dậy, phát ra những tiếng động không thể xác định được do nhiều người tạo ra khi họ đang tìm lối về. Vì vậy, tôi dụi mắt, cố tỏ ra thông minh, cố tỏ ra tỉnh táo và như thể tôi đã chú tâm.

Tôi mệt mỏi đi, một lần nữa ở về cuối đường, về lại ký túc xá chung của chúng tôi. Nghĩ thầm tôi mừng biết bao vì sau đêm nay tôi không còn phải ngủ với cả một đám con trai thuê cả đêm bằng tiếng ngáy và tiếng khóc của chúng. Nhưng sau đêm nay, tôi một mình có thể ngủ.

Trong ký túc xá, khi tôi chuẩn bị quấn mình trong chăn, một cậu bé cố nói chuyện với tôi. Nó nói rằng nó nghĩ thật tuyệt vời khi tôi sắp có một nơi của riêng mình. Nhưng nó ngáp nặng nề giữa câu rồi nằm xuống đất ngủ thiếp đi. Tôi quấn chăn bước đến bên cửa sổ, và lại nhìn ra ngoài trời đêm đầy sao, nhìn lớp tuyết bốc lên từ đỉnh núi và được thắp sáng một cách đẹp đẽ bởi ánh trăng đang lên. Rồi tôi cũng nằm xuống và ngủ, không nghĩ ngợi gì nữa. Giấc ngủ của tôi không mộng mị và yên bình.