Chương 8
Người dịch: Dũng.TTQ
Đâu đó có tiếng chuông ngân lên. Tiếng đầu tiên ngắt một khoảng, rồi cứ thế nhanh chóng tăng dần. Boong! Boong! Đã ngừng rồi. Lạ nhỉ, tôi nghĩ. Tiếng chuông ư? Thật dễ chịu, nó đang ngân cùng với nhịp tim của tôi. Trong một khoảnh khắc, tôi trở nên hoảng sợ; hay là tôi đã ngủ quên và muộn giờ lễ ở đền nhỉ? Tôi lờ mờ mở mắt ra và cố nhìn xem mình đang ở đâu. Điều này thật kỳ lạ! Tôi không thể tập trung. Tất cả những gì tôi có thể nhận ra là chín cái đốm trắng khủng khiếp đính trên đỉnh các vệt sọc màu vàng nghệ. Não tôi kêu răng rắc trong nỗ lực để suy nghĩ. Tôi đã ở đâu vậy? Chuyện gì đã xảy ra thế? Tôi đã rơi từ mái nhà hay từ đâu chăng? Tôi ủ rũ nhận thấy có nhiều cơn đau nhức khác nhau, đang tràn vào trong ý thức.
A, đúng rồi! Tất cả quay trở về một cách vội vàng. Cùng với sự nhận biết đã quay lại, tôi có thể tập trung bằng mắt, và nhìn thấy những gì trước mặt. Tôi đang nằm ngửa trên nền đá lạnh buốt. Cái bát của tôi bằng cách nào đó đã trượt từ trước ra sau trong áo choàng của tôi, và giờ đang đỡ lấy trọng lượng của tôi chỗ giữa hai bả vai. Chiếc túi lúa mạch của tôi, bằng da cứng, bị tôi đè bên dưới và làm xương sườn bên trái của tôi như muốn gãy. Tôi xúc động cử động, và nhìn đăm đăm vào chín vị lạt ma đang ngồi quan sát tôi. Họ chính là những đốm màu trắng khủng khiếp dính trên các vệt sọc màu vàng nghệ! Tôi hy vọng họ không biết tôi đã nghĩ gì.
“Có chứ, Lobsang, chúng ta biết chứ!” một vị cười. “Những suy nghĩ thần giao cách cảm của con rất rõ ràng về điều đó. Nhưng con sẽ phát triển từ từ. Con đã làm tốt, và hoàn toàn khẳng định cho những nhận xét từ Thầy hướng dẫn của con”. Tôi rón rén ngồi dậy, nhận được một cái ẩy mông nồng ấm phía sau lưng cùng tiếng gừ gừ ầm ĩ. Con mèo già quay lại đối mặt với tôi, và chạm vào tay tôi như một dấu hiệu cho thấy nó muốn xù lông lên. Tôi ngập ngừng thu thập lại những mảnh trí óc đang bị phân tán của mình, và tự hỏi điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Vị lạt ma đã đi cùng tôi nói: “À, Lobsang, đây là một kinh nghiệm tốt khi thoát ra khỏi thân xác”. “Chúng ta phải thực hành thường xuyên để con có thể thoát ra khỏi cơ thể mình dễ dàng như cởi bỏ chiếc áo choàng của con”. “Nhưng, thưa Lạt ma đáng kính”, tôi bối rối nói, “con không rời bỏ thể xác của mình, con đã mang nó theo mình!”. Vị lạt ma dẫn đường há hốc mồm kinh ngạc: “Ý con là sao?” ngài kêu lên. “Con đã du hành trong thể vía với ta mà”. “Kính thưa Lạt ma”, tôi đáp lại, “con đã đặc biệt quan sát, và thấy thân xác con không nằm trên sàn, vì vậy con chắc chắn đã mang nó theo”.
Vị lạt ma già, nhăn nheo, nhỏ nhất trong chín vị, mỉm cười và nói: “Lobsang, con đang phạm một sai lầm thông thường, vì con vẫn còn bị mê hoặc bởi các giác quan”. Tôi nhìn ngài, và thành thật mà nói, tôi không biết ông đang nói về cái gì. Đối với tôi, dường như ông ấy đã mất trí. Vì, tôi nghĩ, chắc chắn tôi biết rằng tôi có nhìn thấy cơ thể của chính mình hay không? Và nếu tôi không nhìn thấy cơ thể của mình, thì chắc chắn nó đã không ở đó. Tôi cho rằng qua ánh mắt hoài nghi của mình, chắc hẳn họ thấy rằng tôi đang không tiếp thu những gì họ đang nói, những gì họ đang ám chỉ. Một lạt ma khác đang ra hiệu cho tôi chú ý. “Ta sẽ giải thích cho con về việc này, Lobsang”, một vị khác nói, “và ta muốn con chú ý lắng nghe, vì những gì ta phải nói chỉ là điều cơ bản, nhưng lại là vấn đề khiến nhiều người bối rối. Con đang nằm trên sàn, và do đây là lần đầu tiên con du hành bằng thể vía một cách có ý thức nên chúng ta giúp con. Chúng ta đã giúp con nới lỏng thể vía ra khỏi thể xác con. Và do việc này được thực hiện bởi chúng ta, những người đã có kinh nghiệm thực hiện cả đời, nên con không cảm thấy bất kỳ sự chấn động, hoặc sự xáo trộn nào. Vì vậy, rõ ràng là con không biết rằng mình đã ra khỏi cơ thể”. Tôi nhìn ngài, và nghĩ về điều đó. Tôi nghĩ, vâng, điều đó đúng, tôi không hề biết rằng mình đã xuất vía, không ai nói rằng tôi sẽ xuất vía. Vì vậy nếu họ không nói cho tôi biết điều gì sẽ xảy ra, thì làm sao tôi có thể có cảm giác lìa khỏi xác? Nhưng, sau đó tôi nhớ lại rằng tôi đã nhìn xuống và đã không nhìn thấy cơ thể của mình nằm trên sàn, điều mà lẽ ra tôi phải thấy, trừ khi tôi vẫn còn ở trong cơ thể. Tôi lắc đầu như muốn rũ bỏ điều rắc rối này; Tôi cảm thấy tất cả những điều này trở nên quá khó hiểu với tôi. Tôi đã ra khỏi thể xác, nhưng thể xác của tôi không ở đó. Vậy nếu nó không ở đó thì nó ở đâu? và tại sao tôi lại không thấy nó nằm ở đâu đó? Ngay lúc đó, con mèo già ẩy một cái mông khác cho tôi và bắt đầu rúc, nảy lên nảy xuống trên đùi, cào móng vuốt vào áo choàng của tôi, và kêu gừ gừ ngày càng to hơn; để nhắc nhở tôi cũng phải chú ý đến sự hiện diện của nó. Vị lạt ma đang nói, bật cười nhận xét: “Đấy! Anh mèo già ngày đang bảo con hãy kỳ cọ sạch bộ não, để con có thể nhận thức được!”
Tôi xòe ngón tay cào cào vào lưng con mèo. Tiếng gừ gừ của nó lớn dần, rồi đột nhiên nó ngồi phịch xuống, duỗi ra. Con mèo to lớn, già nua, đầu thò ra một bên đùi tôi và hai chân thò ra phía bên kia, đuôi duỗi thẳng. Những con mèo này lớn hơn loại mèo bình thường, chúng thường hung dữ. Nhưng tất cả những con mèo trong đền thờ của chúng tôi dường như đều coi tôi là anh em hay gì đó, vì chắc chắn tôi cũng yêu thích chúng như chúng yêu thích tôi.
Vị lạt ma đã nói chuyện với tôi trước đó, quay sang tôi nói: “Cứ để con mèo như thế, nó có thể nằm trên người con trong khi chúng ta nói chuyện. Có lẽ nó sẽ thường xuyên thúc mạnh con để nhắc nhở con chú ý. Giờ thì! Người ta chỉ nhìn thấy được những gì mà người ta mong đợi mình sẽ thấy. Thường thì họ không thấy được những điều hiển nhiên nhất. Chẳng hạn như…”, ngài nhìn tôi chăm chú khi nói tới đây, “có bao nhiêu người dọn dẹp ở hành lang khi con đi qua? Ai là người đang quét dọn trong kho lúa mạch? Và nếu Đức Tối cao cho gọi con đến, rồi yêu cầu con kể cho ngài nếu con nhìn thấy bất kỳ ai ở hành lang nội viện, con sẽ nói gì với ngài?” Ông dừng lại một chút để xem liệu tôi có định đưa ra nhận xét gì không. Và khi tôi nhìn chằm chằm vào ông với cái miệng đang há hốc, ông tiếp tục: “Con có lẽ sẽ nói rằng con không nhìn thấy ai ở hành lang nội viện, vì cái người lúc đó đang ở hành lang là người có mọi quyền có mặt ở đó. Người đó luôn ở đó, và là người hoàn toàn đúng đắn khi có mặt trong hành lang đó, đến mức con thậm chí không nhận ra anh ta. Vì vậy, con sẽ nói rằng con không thấy ai chỗ hành lang đó”.
Một lạt ma khác xen vào, gật đầu một cách đầy kinh nghiệm khi ông nói thêm: “Các giám thị thường gặp một số khó khăn khi họ tiến hành một cuộc điều tra; họ có thể hỏi xem có người lạ nào không, hoặc có ai đã từng ở trong một tòa nhà nào đó không? Và lúc đó người trông coi tòa nhà cũng sẽ nói rằng, không, không có ai vào cả. Có thể đã có một đám lễ đã đi qua, các giám thị đã đi qua, có thể đã có một hoặc hai lạt ma, và thậm chí có thể có một sứ giả từ tu viện khác. Nhưng bởi vì những người đó quá phổ biến; nghĩa là, vì họ thường xuất hiện ở đó; hành trình của họ sẽ không được chú ý. Và mặc dù ở trong tầm quan sát, họ cũng có thể trở nên vô hình.
Một người vẫn chưa lên tiếng gật đầu: “Đúng vậy. Bây giờ ta hỏi con, Lobsang, con đã đến ngôi đền này bao nhiêu lần? Tuy nhiên, theo ánh mắt của con mới đây, con thậm chí còn không nhìn thấy cái giá đỡ mà chúng ta đặt viên tinh thể trên đó. Giá đỡ đó đã ở đây khoảng hai trăm năm, nó vẫn chưa ra khỏi ngôi đền này, nhưng con nhìn nó như thể con mới nhìn thấy lần đầu tiên. Nó đã ở đây từ trước, nhưng vì nó là chuyện bình thường đối với con, do đó nó vô hình”.
Vị lạt ma đã đi cùng tôi trong chuyến du hành bằng thể vía qua Potala, mỉm cười khi ông tiếp tục: “Lobsang, con không biết chuyện gì đang xảy ra, con không biết mình sắp thoát ra khỏi cơ thể, do đó, con đã không chuẩn bị để nhìn thấy cơ thể của con. Vì vậy, khi con nhìn, con nhìn vào các Lạt ma đang ngồi trong vòng tròn, và sự chú ý của con đã cẩn thận né tránh cơ thể của chính mình. Chúng ta nhận được điều tương tự trong thuật thôi miên. Chúng ta có thể thôi miên một người tin rằng anh ta hoàn toàn ở một mình trong phòng, và sau đó người ấy ở trong trạng thái thôi miên sẽ nhìn thấy mọi thứ trong phòng, ngoại trừ người ở chung phòng với anh ta. Và người bị thôi miên khi bị đánh thức, sẽ tuyên thệ rằng anh ta đã chỉ ở có một mình. Cũng bằng cách tương tự, con cẩn thận tránh nhìn vào nơi cơ thể con nằm. Thay vào đó, con nhìn quanh chu vi vòng tròn, con nhìn quanh ngôi đền để tránh một điểm mà con nghĩ rằng mình muốn thấy”.
Điều này thực sự làm tôi phải suy nghĩ; Tôi đã nghe một cái gì đó như thế trước đây. Tôi đã từng thấy một nhà sư già bị chứng đau nửa đầu hành hạ. Như ông ấy đã giải thích cho tôi sau đó, những thứ mà ông ấy nhìn thì không có ở đó, nếu ông ấy nhìn vào một vật trước mặt mình thì ông ấy chỉ có thể nhìn thấy những thứ bên cạnh. Nhưng nếu ông ấy nhìn sang bên cạnh thì lại có thể nhìn thấy những thứ phía trước mặt mình. Ông ấy nói với tôi rằng, điều đó giống như phải nhìn qua một cặp ống gắn trước mắt, vì vậy ông như một người đang phải đeo miếng che mắt.
Một lạt ma, lúc đó tôi không biết người này, nói: “Điều hiển nhiên thường có thể trở nên vô hình vì một vật càng phổ biến, càng quen thuộc thì nó càng trở nên ít được chú ý. Ví dụ như người đàn ông chở lúa mạch: Con nhìn thấy anh ta hàng ngày, nhưng con không nhìn thấy anh ta. Anh ta là một nhân vật quen thuộc đến nỗi nếu ta hỏi con sáng nay ai đã đến đây, con sẽ nói, không có ai. Bởi vì con sẽ không coi người chở lúa mạch là một người, mà chỉ là một thứ luôn làm một việc nhất định vào một thời điểm nhất định”.
Đối với tôi, điều đáng chú ý nhất là tôi nằm trên mặt đất, nhưng sau đó lại không thể nhìn thấy cơ thể của chính mình. Tuy nhiên, tôi đã nghe nói nhiều về thuật thôi miên và du hành bằng thể vía, nên tôi hoàn toàn có thể chấp nhận lời giải thích của họ.
Vị lạt ma già, nhăn nheo mỉm cười với tôi khi nhận xét: “Chúng ta sẽ sớm hướng dẫn cụ thể hơn cho con, để con có thể rời khỏi cơ thể của mình một cách dễ dàng bất cứ lúc nào. Giống như mọi người khác, con đã và đang thực hiện các chuyến du hành bằng thể vía mỗi đêm, du hành đến những nơi xa xôi, rồi sau đó quên mất nó. Nhưng chúng ta muốn cho con thấy thật dễ dàng để con có thể thoát ra khỏi cơ thể của mình bất cứ lúc nào, và thực hiện một chuyến du hành bằng thể vía, rồi trở lại cơ thể của con mà vẫn giữ được đầy đủ kiến thức về tất cả những gì con đã thấy, tất cả những điều con đã làm. Nếu con có thể làm điều đó, con có thể đi du lịch đến những thành phố lớn trên thế giới và sẽ không còn bị cô lập ở Tây Tạng này, mà còn có thể có được những kiến thức về tất cả các nền văn hóa”.
Tôi đã từng nghĩ về điều đó. Tôi đã thường tự hỏi làm thế nào mà một số lạt ma cao cấp của chúng tôi dường như có toàn tri. Họ dường như là những thực thể tách biệt, xa rời những tầm thường của cuộc sống hàng ngày. Họ có thể kể về những gì đang xảy ra bất cứ lúc nào, ở bất kỳ vùng nào trên đất nước chúng tôi. Tôi nhớ có một lần, tôi cùng với Thầy hướng dẫn của mình đã đến gặp một ông già, rất già. Tôi đã được giới thiệu cho ngài ấy, và chúng tôi đã nói chuyện; hay đúng hơn là Thầy hướng dẫn của tôi và ngài ấy đã nói chuyện, còn tôi lắng nghe một cách kính trọng. Đột nhiên, ông lão giơ tay lên và nói: “Tôi được triệu tập!” Sau đó, ông rút lui, ánh sáng dường như vụt tắt khỏi cơ thể ông. Ông ngồi đó bất động, trông như một người đã chết, trông như một cái vỏ trống rỗng. Thầy tôi ngồi yên, và ra hiệu cho tôi cũng im lặng. Chúng tôi ngồi bên nhau, tay đan vào lòng. Không nói, không cử động. Tôi quan sát thứ dường như là một cái bóng trống rỗng bằng sự quan tâm lớn lao. Có lẽ là mười, hoặc là hai mươi phút. Rất khó để ước tính thời gian trong trường hợp đó. Không có gì xảy ra. Sau đó, sắc màu sinh khí quay trở lại với ông lão. Cuối cùng thì ông cũng cựa mình và mở mắt ra. Rồi sau đó, tôi sẽ không bao giờ quên điều ấy, ông kể cho Thầy hướng dẫn của tôi chính xác những gì đang xảy ra ở Shigátsê, cách chúng tôi khá xa. Tôi nhận ra rằng đây là một hệ thống liên lạc tốt hơn nhiều so với tất cả các thiết bị đáng chú ý mà tôi đã nghe nói tại thế giới bên ngoài.
Tôi muốn có thể du hành bằng thể vía đến bất cứ đâu. Tôi muốn có thể di chuyển qua núi, qua biển và đến những vùng đất xa lạ. Và những vị này, chín Lạt ma này sẽ dạy tôi!
Con mèo già ngáp dài, làm cho bộ râu của nó rung lên, rồi nó đứng dậy vươn vai và giãn ra đến khi tôi tưởng nó gần như bị gãy làm đôi. Sau đó, anh ta lững thững bước đi, ngạo nghễ len lỏi giữa hai vị lạt ma, và biến mất vào bóng tối phía sau một trong những bức tượng thiêng. Vị lạt ma già, nhăn nheo nói: “Ồ, đã đến lúc chúng ta phải kết thúc buổi làm việc, vì chúng ta không đến đây để dạy Lobsang dịp này, đây chỉ là một dịp tình cờ. Chúng ta phải bắt tay vào công việc khác của mình và sẽ gặp lại Lobsang khi Thầy hướng dẫn của cậu ấy trở lại”.
Một vị khác quay sang tôi và nhìn tôi chằm chằm: “Con sẽ phải học thật cẩn thận, Lobsang. Con có rất nhiều việc phải làm trong cuộc sống, con sẽ gặp khó khăn, đau khổ. Con sẽ đi xa và thường xuyên. Nhưng cuối cùng con sẽ đạt được điều là nhiệm vụ của mình. Chúng ta sẽ cung cấp cho con các khóa đào tạo cơ bản”. Họ đứng dậy, lấy viên tinh thể ra khỏi giá đỡ và rời khỏi ngôi đền.
Tôi ngồi đó thắc mắc. Một nhiệm vụ ư! Khó khăn ư? Nhưng tôi luôn được bảo rằng tôi có một cuộc sống khó khăn phía trước, luôn được bảo rằng tôi có một nhiệm vụ, vậy tại sao họ lại nhúng tay vào nó như thế? Nhưng mà, tại sao tôi phải làm nhiệm vụ, tại sao tôi luôn là người phải chịu đau khổ? Tôi càng nghe về nó, tôi càng không thích nó. Nhưng tôi muốn du hành bằng thể vía, và quan sát tất cả những điều tôi đã nghe nói. Tôi rón rén đứng dậy, nhăn mặt và lẩm bẩm những lời không hay khi những cơn đau lại xuyên thấu qua chân. Nào là kim và ghim, lại có một vài vết sưng tấy và bầm tím do tôi bị ngã mấy lần, cùng một cơn đau giữa hai bả vai nơi tôi đã tì vào cái bát của mình. Nghĩ đến đấy, tôi thò tay vào trong áo choàng của mình để sắp xếp đồ đạc vào những vị trí quen thuộc của chúng. Sau đó, nhìn quanh lần cuối, tôi rời khỏi ngôi đền.
Đến cửa, tôi vội vàng quay trở lại, tới những ngọn đèn bơ đang lập lòe. Tôi dập tắt chúng từng cái một, vì đó là nhiệm vụ của tôi. Tôi là người cuối cùng rời đi, vì vậy tôi phải là người tắt đèn. Khi tôi tìm đường xuyên qua bóng tối, đến chỗ có ánh sáng yếu ớt từ cánh cửa đang mở, lỗ mũi của tôi bị tấn công bởi mùi hăng hắc từ những chiếc bấc đang cháy âm ỉ. Đâu đó trong góc, một ngọn đèn có bấc đỏ rực đang tàn lụi.
Tôi đứng một lúc ở cửa để quyết định xem mình nên đi đường nào. Sau đó, với quyết tâm của mình, tôi quay lại và đi về phía bên phải. Ánh sao rực rỡ tràn vào qua cửa sổ, mang lại vẻ ngoài ánh xanh bàng bạc cho mọi thứ. Tôi rẽ vào một góc hành lang và đột ngột dừng lại, suy nghĩ. Đúng thế, dĩ nhiên là họ đúng. Tôi đứng đó một lúc suy nghĩ. Tôi chợt nhớ ra rằng hết lần này đến lần khác tôi đi ngang qua một vị sư già đang ngồi trong một căn buồng nhỏ, và mặc dù tôi nhìn thấy ông ấy hàng ngày, tôi thậm chí không bao giờ để ý đến ông ấy. Tôi bước lùi lại khoảng mười thước, và nhìn vào trong. Ông ấy đang ở trong một ô đá nhỏ phía xa hành lang, đối diện với các cửa sổ. Ông đã bị mù, ngồi đó trên sàn không ngừng quay một Bánh xe Cầu nguyện. Thật là một bánh xe lớn; quay, quay, và quay. Bất cứ khi nào có ai đi ngang qua đều nghe tiếng “cạch, cạch, cạch” không ngừng từ cái kinh luân của vị sư già. Giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác ông ngồi đó, tin rằng nhiệm vụ được giao trong đời ông là giữ cho Bánh xe Cầu nguyện được quay, và đó là tất cả mục đích sống của ông. Chúng tôi, những người đã quá thường xuyên đi qua lối này, không bị ảnh hưởng bởi sự quay của Bánh xe. Chúng tôi đã quá quen với việc đó đến nỗi chúng tôi không nhìn thấy vị sư già, cũng như không nghe thấy tiếng bánh xe của ông kêu lách cách.
Tôi đứng đó trong ô cửa tối và suy nghĩ khi Bánh xe đang kêu lách cách, còn ông già khẽ ngâm nga: “Om! Mani padme hum! Om! Mani padme hum!”. Giọng ông khàn khàn, những ngón tay vặn vẹo và xương xẩu. Tôi có thể nhận ra ông nhưng lờ mờ, còn ông hoàn toàn không biết gì về tôi. Quay kinh luân, quay kinh luân, như thể đã quay cái Bánh xe trong nhiều năm. Đã quay nó rất lâu trước khi tôi ra đời. Ông ấy sẽ xoay nó bao lâu nữa? Tôi tự hỏi. Nhưng điều này đã chỉ cho tôi thấy rằng mọi người sẽ là vô hình, nếu họ quá quen thuộc đến mức người ta không cần phải chú ý đến họ. Tôi cũng nhận ra rằng âm thanh còn là sự im lặng, nếu người ta đã quá quen với chúng.
Tôi nghĩ đến những lúc tôi ở một mình trong căn buồng tối tăm, rồi sau một lúc tôi sẽ nghe thấy tiếng ục ục và sột soạt của âm thanh từ cơ thể, máu chảy trong các tĩnh mạch và động mạch của cơ thể, rồi tôi nghe thấy tiếng thình thịch, thình thịch, thình thịch đều đặn của tim tôi đang bơm máu đi. Sau một thời gian, tôi thực sự có thể nghe được tiếng không khí thở ra từ phổi mình, và tiếng kêu cót két cùng tiếng tách nhẹ của các cơ kéo xương đến một vị trí khác khi tôi di chuyển. Tất cả chúng ta đều có những điều đó. Tất cả chúng ta đều là những cỗ máy ồn ào, tôi nghĩ; nhưng khi có những âm thanh khác thu hút sự chú ý, chúng ta chỉ không nghe thấy những âm thanh thường xuyên bao quanh mà không gây khó chịu cho mình.
Tôi đứng bằng một chân, và gãi đầu. Rồi tôi nhớ ra rằng đêm đã khuya lắm rồi, chẳng bao lâu nữa sẽ có tiếng gọi đi hành lễ lúc nửa đêm. Vì vậy, tôi không do dự nữa mà đặt cả hai chân xuống đất, kéo chặt áo choàng quanh người hơn và đi lên hành lang đến ký túc xá. Ngay khi lặt lưng xuống, tôi ngủ thiếp đi.
Giấc ngủ không phải là người bạn đồng hành lâu dài với tôi; Tôi vặn vẹo và xoay người, cọt kẹt và rên rỉ khi nằm, và nghĩ về đời sống trong một tu viện. Xung quanh tôi là những cậu bé thở khò khè và lẩm bẩm mớ trong giấc ngủ. Tiếng ngáy của họ tăng lên và giảm xuống trong màn đêm. Một cậu bé bị viêm amidan đang phát ra tiếng bong bóng “bộp bộp, bộp bộp” cho đến khi tôi tuyệt vọng đứng dậy và lật cậu ấy nằm nghiêng. Tôi nằm ngửa, suy nghĩ, lắng nghe. Từ đâu đó, vang lên tiếng click-click đơn điệu của Bánh xe kinh luân, khi một nhà sư nào đó xoay nó không ngừng để những lời cầu nguyện của ông có thể bay xa. Từ đằng xa, vọng lại tiếng lộp cộp nhát gừng khi ai đó cưỡi ngựa trên con đường bên ngoài cửa sổ. Màn đêm trôi đi. Thời gian như ngừng lại. Cuộc sống này là một sự chờ đợi, chờ đợi không ngừng, nơi không có gì di chuyển, nơi tất cả vẫn còn ngoại trừ tiếng ngáy, tiếng lách cách của Bánh xe cầu nguyện và tiếng vó ngựa. Chắc tôi đã ngủ gật…
Tôi mệt mỏi ngồi dậy. Sàn nhà cứng và rắn. Cái lạnh của đá đang len lỏi vào tận xương tủy. Ở đâu đó một cậu bé lẩm bẩm rằng cậu muốn gặp mẹ. Tôi khó khăn đứng dậy và di chuyển đến cửa sổ, cẩn thận tránh những cơ thể đang nằm ngủ xung quanh. Lạnh dữ dội, nguy cơ là sẽ có tuyết rơi. Trên dãy Himalaya bao la, bình minh đang tỏa ra những luồng ánh sáng, những ngón tay đầy màu sắc đang tìm kiếm vào Thung lũng của chúng tôi, chờ đợi để thắp sáng một ngày mới.
Lớp bụi tuyết luôn bay từ những đỉnh núi cao nhất giờ đây được tỏa sáng bởi ánh nắng vàng chiếu vào lớp dưới. Trên đỉnh xuất hiện những vầng cầu vồng lấp lánh, dao động và bùng nở trước những cơn gió lớn bất chợt. Khắp bầu trời tỏa ra những chùm ánh sáng sống động khi mặt trời dần ló dạng qua những ngọn núi, hứa hẹn một ngày mới sớm đến. Những ngôi sao mờ dần. Bầu trời không còn là một vòm màu tím; sáng dần, sáng dần và chuyển thành màu xanh nhàn nhạt. Cả dãy núi như được dát vàng khi bầu trời sáng dần lên. Dần dần, quả cầu mặt trời chói lọi leo lên trên các con đèo và tỏa sáng rực rỡ huy hoàng vào thung lũng của chúng tôi.
Cái lạnh thật dữ dội. Những tinh thể băng từ trên trời rơi xuống, rồi bị nứt ra trên mái nghe như tiếng nhạc leng keng. Cái giá buốt, lạnh sắc của bầu không khí làm cho xưởng tủy người ta như bị đóng băng. Đúng là một kiểu khí hậu đặc biệt, tôi nghĩ. Đôi khi quá lạnh đến nỗi tuyết rơi, tuy nhiên đôi lúc vào giữa trưa, trời lại nóng một cách khó chịu. Sau đó, trong nháy mắt, một cơn bão lớn sẽ nổi lên và thổi bay tất cả trước mặt nó. Trên núi bao giờ cũng có tuyết, tuyết dày, nhưng trên những đoạn lộ thiên, gió quét tuyết đi nhanh như khi nó rơi xuống. Đất nước của chúng tôi cao và có không khí trong lành. Không khí loãng và trong đến mức có rất ít nơi trú ẩn khỏi các tia cực tím (hoặc sinh nhiệt) của mặt trời. Vào mùa hè nơi chúng tôi, một nhà sư có thể ra mồ hôi nhễ nhại trong chiếc áo cà sa của mình. Rồi sau đó, khi một đám mây che khuất mặt trời trong giây lát, nhiệt độ giảm xuống nhiều độ dưới mức đóng băng, tất cả chỉ trong vài phút.
Chúng tôi phải chịu đựng rất nhiều những cơn bão gió. Rào cản vĩ đại của dãy Himalaya đôi khi cản trở những đám mây hình thành phía bên Ấn Độ, gây ra hiện tượng nghịch nhiệt. Sau đó, những cơn gió hú sẽ tràn qua các mỏm núi và lao xuống thung lũng của chúng tôi, quét sạch mọi thứ trước nó. Những người lang thang ra ngoài trong cơn bão phải đeo khẩu trang bằng da, có nguy cơ bị trầy xước do bụi đá bị cuốn theo gió, từ những đỉnh núi cao nhất tràn xuống. Những du khách bị mắc kẹt trên đèo núi sẽ có nguy cơ bị thổi bay, trừ khi họ cảnh giác và hành động nhanh chóng. Lều trại và những tài sản khác của họ bị thổi bay trong không trung, quay cuồng rách rưới và đổ nát, như đồ chơi của những cơn gió vô tâm.
Đâu đó bên dưới, trong buổi lờ mờ sáng, một con bò Tây Tạng rống lên thê lương. Như là tín hiệu, những tiếng kèn vang lên từ chỗ mái cao phía trên. Những tiếng tù và trầm rộn ràng, vang vọng, dội lại rồi hòa vào một bản hòa tấu âm thanh, giống như một số hợp âm được chơi trên một cây đại phong cầm. Xung quanh tôi có muôn vàn âm thanh của một cộng đồng lớn đang thức dậy đón một ngày mới, một ngày mới của cuộc đời. Tiếng tụng kinh từ ngôi đền, tiếng ngựa hí, tiếng càu nhàu lầm bầm của những cậu bé ngái ngủ, trần truồng run rẩy trong không khí lạnh buốt. Và âm điệu dịu dàng, là tiếng lách cách không ngừng của những Bánh xe Cầu nguyện xuyên qua các tòa nhà, quay đi quay lại không ngừng bởi những nhà sư già, rất già; những người nghĩ rằng đó là mục đích duy nhất của họ trong cuộc sống.
Thành phố đã xôn xao. Các hoạt động tăng lên theo thời gian. Những cái đầu cạo trọc nhìn một cách đầy hy vọng từ những ô cửa sổ mở, ước mong một ngày ấm áp hơn. Một đốm đen, không hình thù, không hình dạng, chao đảo rơi từ đâu đó phía trên, vượt qua tầm mắt tôi rồi va tảng đá bên dưới tạo nên tiếng nứt vỡ sắc nhọn. Chắc là bát của ai đó, tôi nghĩ. Bây giờ anh ta sẽ phải nhịn ăn sáng cho đến khi kiếm được cái bát khác! Bữa sáng? Tất nhiên rồi! Chúng tôi đã bắt đầu một ngày khác, một ngày mà tôi cần phải lấy lại sức; vì tôi hy vọng Thầy hướng dẫn kính yêu của tôi sẽ trở lại vào hôm nay. Và trước khi tôi có thể gặp ngài thì còn phải tham dự lớp học buổi sáng, hành lễ; nhưng trước hết là, phải ăn sáng!
Tsampa là một thứ không ngon miệng, nhưng đó là tất cả những gì tôi biết, ngoại trừ những món ngon rất hiếm, rất hiếm từ Ấn Độ. Vì vậy, tôi lê bước xuống hành lang, đi theo hàng các nam sinh và tu sĩ đang đi xuống sảnh nơi chúng tôi dùng bữa.
Tôi quanh quẩn một lúc ở lối vào, đợi những người khác ổn định chỗ ngồi, vì tôi bị run chân, bước đi có phần không vững. Khi mọi người xung quanh đi lại, chắc chắn đe dọa đến tư thế của tôi. Cuối cùng, tôi bước vào và ngồi lên vị trí của mình giữa hàng đàn ông và đám con trai đang ngồi trên sàn. Chúng tôi ngồi xếp bằng (tất cả trừ tôi, và tôi ngồi với hai chân nhét dưới người). Có nhiều hàng người, có lẽ phải tới hai trăm năm mươi người một lúc. Khi chúng tôi ngồi đó, các nhà sư phục vụ đến và múc tsampa. Đi dọc theo các hàng, chia đều cho mỗi người chúng tôi. Các nhà sư đứng ở hai bên của mỗi hàng, rồi sau đó theo tín hiệu đưa ra, họ mang thức ăn đi vào giữa các hàng. Tuy nhiên, không ai được phép ăn cho đến khi người quản lý ra hiệu. Cuối cùng, mỗi nhà sư và cậu bé đều có bát đầy tsampa; rồi những người phục vụ đứng sang một bên.
Một vị lạt ma già bước đến bục, một bục giảng cao hơn đầu chúng tôi để ông có thể nhìn xuống mọi người. Ông đứng đó và nhấc trang trên cùng tại cuốn sách của mình. Hãy nhớ rằng các trang sách của chúng tôi là những tờ dài, nên không được đóng lại với nhau như ở phương Tây. Vị lạt ma này nhấc trang trên cùng ra, rồi ra hiệu rằng ông đã sẵn sàng bắt đầu. Ngay lập tức, người chủ trì giơ tay, và hạ xuống ra hiệu cho chúng tôi bắt đầu bữa ăn. Khi chúng tôi ăn, giảng viên bắt đầu đọc Sách Thánh. Giọng ông cứ đều đều, dường như vang vọng khắp nơi, khiến cho phần lớn những gì ông nói trở nên khó hiểu.
Xung quanh phòng ăn, những giám thị luôn bước đi lặng lẽ, không tạo ra âm thanh nào ngoại trừ tiếng áo choàng của họ thỉnh thoảng sột soạt.
Trong các tu viện lạt ma trên khắp Tây Tạng, có một phong tục cố định là một giảng viên phải đọc cho chúng tôi nghe trong khi chúng tôi ăn. Bởi vì việc một người vừa ăn vừa nghĩ về thức ăn được coi là sai trái; thức ăn là một thứ thô thiển, chỉ cần thiết để duy trì cơ thể, để nó có thể là nơi cư ngụ của một linh hồn bất tử trong một thời gian ngắn. Vì vậy, mặc dù cần phải ăn, nhưng chúng tôi không được phép lấy điều ấy làm niềm vui. Giảng viên luôn luôn đọc Sách Thánh cho chúng tôi nghe, để trong khi chúng tôi tiếp nhận thực phẩm cho thể xác, thì tinh thần của chúng tôi có thức ăn cho linh hồn.
Các lạt ma cao cấp luôn ăn một mình, hầu hết thời gian đều nghĩ về một số văn bản thiêng liêng, hoặc nhìn vào một số đồ vật hay sách thiêng. Nói chuyện trong khi ăn là một hành vi phạm tội rất lớn, và bất kỳ kẻ xấu số nào bị bắt quả tang đang nói chuyện đều bị Giám thị lôi ra ngoài, và bắt nằm ngang qua ngưỡng cửa; để khi mọi người rời đi, họ phải bước qua người đó, khiến cho nạn nhân rất xấu hổ.
Bọn con trai chúng tôi luôn là người đầu tiên hoàn thành, nhưng sau đó chúng tôi phải giữ im lặng cho đến khi tất cả những người khác ăn xong. Thường thì giảng viên vẫn đọc mà không biết rằng mọi người đang đợi mình. Chúng tôi thường bị trễ giờ học vì giảng viên mải mê với bài đọc của mình, đến nối quên cả thời gian và nơi chốn.
Cuối cùng, giảng viên đọc sách cũng đọc xong và nhìn lên với đôi chút ngạc nhiên, rồi lật một nửa sang trang tiếp theo. Nhưng, ông đóng sách lại và buộc các băng lại với nhau. Nhấc cuốn sách ra, ông đưa nó cho một vị tăng phục vụ. Người này nhận lấy, cúi đầu và mang cuốn sách đi cất giữ cẩn thận. Sau đó, người chủ trì ra hiệu cho chúng tôi giải tán. Chúng tôi đi đến một phía hành lang, nơi có những chiếc túi da đựng cát mịn. Và với một nắm cát, chúng tôi cọ rửa bát ăn của mình. Sử dụng dụng cụ duy nhất mà chúng tôi có, tất nhiên, là các ngón tay mình; dụng cụ lâu đời nhất trong tất cả các loại dụng cụ. Chúng tôi cũng không dùng đến dao nĩa.
“Lobsang! Lobsang! Đi xuống chỗ Thầy quản lý giấy, và lấy cho ta ba tờ loại đã dùng một mặt”. Một lạt ma trẻ đứng trước mặt tôi ra lệnh. Tôi lầm bầm một cách gắt gỏng và loạng choạng đi xuống hành lang. Đây là một trong những loại công việc mà tôi ghét. Bởi vì đối với việc đặc biệt này, tôi sẽ phải ra khỏi Potala và đi xuống tận Làng Shö, nơi tôi sẽ tới chỗ Thầy phụ trách in ấn, để lấy giấy.
Giấy rất hiếm, rất đắt ở Tây Tạng. Tất nhiên, nó hoàn toàn được làm thủ công. Giấy được coi như một đồ vật tôn giáo phụ, bởi vì nó gần như luôn được sử dụng cho những kiến thức thiêng liêng, những lời thiêng liêng. Do đó giấy không bao giờ bị lạm dụng, và không bao giờ bị vứt bỏ. Nếu khi in sách mà chữ bị lem, giấy không bị tưa, thì mặt còn nguyên sẽ được dùng để dạy dỗ cho bọn nhóc chúng tôi. Luôn luôn có một nguồn cung dồi dào giấy hỏng cho những mục đích như vậy, bởi vì chúng tôi in ấn bằng các khối gỗ được khắc tay. Tất nhiên phải khắc ngược để in ra đúng chiều. Do đó, khi in thử chắc chắn có nhiều giấy bị hỏng.
Tôi đi ra khỏi Potala, đi xuống bằng lối sau phía dưới. Con đường rất dốc nhưng ngắn hơn nhiều, và không có bậc thang nào làm tôi mỏi chân. Ở đây, bằng lối sau phía dưới, bọn con trai chúng tôi sẽ đi xuống, thả mình từ bụi cây này sang bụi cây khác. Nếu trượt chân, chúng tôi sẽ tạo nên một đám bụi và làm thủng một lỗ lớn trên phần để ngồi của áo choàng, một vấn đề khó có thể giải thích sau này khi bị hỏi.
Tôi đi xuống con đường mòn nhỏ hẹp với những bụi cây nhô ra. Tại một khoảng trống nhỏ, tôi dừng lại và nhìn ra ngoài, nhìn về phía Lhasa với hy vọng nhìn thấy một chiếc áo choàng màu vàng rất đặc biệt, đang băng qua Cầu Ngọc lam; hoặc có thể là, ý nghĩ này mang lại niềm vui biết bao! đang đi dọc theo Đường Vành đai. Nhưng không, chỉ có những người hành hương, chỉ có những nhà sư lang thang, và một hoặc hai lạt ma bình thường. Vì vậy, tôi thở dài và càu nhàu cài câu, rồi lại tiếp tục trườn theo con đường xuống phía dưới.
Cuối cùng, tôi cũng đến Tòa Tư pháp và đi vòng phía sau để tới Văn phòng In ấn. Bên trong có một vị lão hòa thượng già nua, dường như dính đầy mực. Ngón cái và ngón trỏ xòe ra đang xử lý giấy và khuôn in.
Tôi đi tới và nhìn quanh, mùi của giấy và mực luôn mê hoặc tôi. Tôi nhìn vào một số tấm gỗ có chạm khắc tinh xảo sẽ được dùng để in những cuốn sách mới, và tôi mong chờ đến lúc mình có thể bắt tay vào chạm khắc vì đó là sở thích của tôi. Các tu sĩ chúng tôi luôn có cơ hội thể hiện kỹ năng của mình vì lợi ích của cộng đồng.
“Chà, cậu bé! Nào! Con muốn gì? Nhanh nào, Chuyện gì thế?” Thầy tu thợ in già đang nhìn tôi nghiêm khắc. Nhưng tôi biết ông ấy đã già, ông chỉ quát tháo thế thôi, thực ra tâm địa không có gì. Ông là một người tốt bụng, chỉ sợ những đứa nhóc sẽ vò nát những tờ giấy quý giá. Tôi nhanh chóng đưa ra thông điệp rằng tôi muốn có ba tờ giấy. Ông càu nhàu đáp lại, quay đi và nhòm ngó, nhìn chằm chằm trông như thể ông không chịu nổi khi cho đi những tờ giấy yêu quý của mình. Ông nhìn từng tờ giấy, rồi tiếp tục thay đổi suy nghĩ. Cuối cùng, tôi cảm thấy mệt mỏi với điều này, nhặt ba tờ rồi nói, “Cảm ơn ngài, Thầy in ấn đáng kính, con lấy ba tờ này. Họ sẽ nhận”.
Ông ấy quay lại và nhìn tôi với cái miệng há hốc, sững sờ. Lúc đó tôi đã đến cửa, với đầy đủ ba tờ giấy. Và khi ông đã định thần lại đủ để nói chuyện, thì tôi đã đi xa không nghe thấy nữa.
Tôi cẩn thận cuộn ba tấm giấy lại, để mặt hỏng quay ra ngoài. Sau đó, tôi nhét nó vào phía trước áo choàng của mình, và quay lên trở lại, đu tay qua những bụi cây cứng cáp.
Đến khoảng đất trống, tôi dừng lại lần nữa để lấy hơi. Nhưng thực ra tôi ngồi trên một tảng đá và nhìn một lúc về hướng Sera, nơi có Trại Hoa Hồng. Nhưng không thấy gì, giao thông vẫn bình thường, không có gì khác. Có thể có nhiều người buôn bán hơn thường lệ, nhưng không phải là người mà tôi muốn thấy.
Cuối cùng, tôi đứng dậy và tiếp tục cuộc hành trình lên trên, đi qua cánh cửa nhỏ một lần nữa, và tìm vị lạt ma trẻ đã cử tôi đi.
Anh ấy ở trong phòng một mình và tôi thấy anh đang sáng tác. Tôi lặng lẽ đưa ba tờ giấy cho anh. Anh nói: “Ồ! Em đã đi khá lâu. Em làm báo ở đó hả?”. Anh ta nhận lấy giấy mà không nói thêm lời nào, không cảm ơn. Vì vậy tôi quay người bỏ đi, tới lớp học, nghĩ xem làm cách nào để tôi hoàn thành hết ngày học cho đến khi Thầy hướng dẫn của tôi trở về.