Dịch giả: Lê Thành
Chương 8
Quả là dễ chịu khi nằm dài trên cỏ, dưới chân tu viện Pargo Kaling. Ở phía trên, sau lưng tôi, là những khối đá cố vươn thẳng lên trời, và nhìn từ nơi tôi đang nằm đây, các đỉnh của toà nhà kiến trúc như thể đang vuốt ve những đám mây. Cái đỉnh đó được gọi là “Nụ Sen”, tượng trưng cho thần trí, trong khi những chiếc “lá” chống đỡ Nụ tượng trưng cho không khí. Về phần tôi, tôi đang tựa lưng trên một khối đá tượng trưng cho “Kiếp Đời”. Ngoài tầm nhìn của tôi – khi tôi đang nằm như thế – là sừng sững “Những Bậc Thang của Sự Hoàn Thiện.”
Quả là dễ chịu khi nhởn nhơ ở đây và nhìn những thương lái đến từ Ấn Độ, Trung Quốc và Miến Điện đang đi ngang qua. Một số các tay buôn đó đi bộ, dẫn theo một đoàn ngựa thồ trĩu nặng hàng hoá từ phương xa. Số khác, có lẽ giàu có hơn hoặc chỉ đơn giản là do mệt mỏi, thì ngồi trên ngựa và nhìn quanh. Tôi thầm nghĩ, những cái giỏ mây của họ chứa những thứ hàng hoá gì, và bất chợt, tôi giật mình: chính vì lẽ đó mà tôi có mặt ở đây! Tôi ở đây để quan sát khí huyền bí bao quanh con người, và quan sát càng nhiều càng tốt. Tôi ở đây để “đoán”, dựa vào vầng khí huyền bí và thuật ngoại cảm, những con người đó đang làm gì, đang nghĩ gì, và những ý định của họ là gì.
Ở bên kia đường có một gã mù ǎn xin đang ngồi. Áo quần rách bươm, lấm bụi đường, gã xin bố thí bằng một giọng rên rỉ, than van. Một số khá đông khách thương hồ vứt những đồng xu cho gã ǎn xin, thích thú nhìn gã mò mẫm tìm. Gã ǎn xin có thể định vị những đồng xu qua âm thanh mà chúng phát ra khi chạm đất hoặc vào một hòn đá. Thỉnh thoảng, nhưng rất ít khi, gã không thể tìm được đồng xu; thế là người bố thí lượm lên và lại vứt xuống. Trong khi nghĩ đến gã ǎn xin, tôi nhìn về phía gã, và sự ngạc nhiên làm tôi bật dậy. Vầng khí huyền bí của gã! Lúc nãy, tôi đã không buồn quan tâm đến. Và giờ đây, khi chú tâm nhìn, tôi nhận thấy gã đó không hề mù. Tôi thấy gã là người giàu, có tiền và có của để một nơi an toàn, và gã giả bộ mù loà khốn khổ vì đối với gã, ǎn xin là cách thuận lợi nhất để kiếm tiền. Không, không thể! Chắc tôi đã nhầm; tôi đã quá tin ở những khả năng quan sát của tôi. Có lẽ những khả năng đó đã suy giam. Ý nghĩ đó làm tôi lo sợ, và tôi đứng dậy để đi tìm những lời giải thích ở thầy Linh hướng của mình, đang ở Kundu Ling, phía trước.
Vài tuần trước đây, tôi đã trải qua một cuộc “giải phẫu” nhằm mở rộng hơn “Con Mắt Thứ Ba” của tôi. Từ khi chào đời, tôi đã có những khả năng thấu thị khác thường, khả năng nhìn thấy “khí huyền bí” bao quanh thân con người, thú vật, và cây cỏ. Cuộc giải phẫu đau đớn đó đã giúp tôi tǎng cường những khả năng của mình, vượt quá sự mong đợi của Lạt ma Mingyar Dondup. Giờ đây, tôi được huấn luyện một cách triệt để; tất cả những giờ canh thức của tôi, tôi đều dành để nghiên cứu khoa học huyền bí. Tôi cảm thấy mình bị đè bẹp bởi những lực rất mạnh trong khi Lạt ma này hoặc Lạt ma nọ “nhồi nhét” vào tôi những kiến thức qua thần giao cách cảm, hoặc qua những phương pháp lạ lùng khác mà tôi phải quyết chí học hỏi đúng theo quá trình. Cần gì phải làm những bài tập khi người ta có thể học bằng thần giao cách cảm! Cần gì phải hỏi về những ý định của một người khác khi ta có thể nhìn thấy chúng nơi khí huyền bí bao quanh người đó? Tuy vậy, gã mù ǎn xin đó khiến tôi nghi ngờ!
Tôi gọi lớn khi ngang qua đường:
-Lạt ma khả kính, người đang ở đâu?
Tôi chạy nhanh vào công viên, nhanh đến nỗi suýt vấp té.
Ngồi thanh thản trên một thân cây bị đốn, thầy Linh hướng mỉm cười và nói với tôi:
-À! Trông con có vẻ sững sờ vì con vừa phát hiện rằng “một người mù” cũng có đôi mắt sáng như con.
Mệt đứt hơi, tôi thốt lên:
-Vâng, đó là một kẻ bịp bợm, lừa đảo, bởi y đã đánh cắp những người có lòng tốt, y đáng bị cho đi tù.
Bật cười khi thấy khuôn mặt đỏ tía và tức giận của tôi, ngài Lạt ma nói:
-Nhưng Lobsang, tại sao con lại bực tức đến thế? Người đó bán những dịch vụ của y, tựa như người bán các cối kinh thế thôi. Người ta cho gã những đồng xu, hầu họ có thể nghĩ rằng họ rộng lượng, hầu họ có cảm tưởng rằng họ nhân từ. Điều đó, trong một thời gian, tǎng tốc nhịp của những dao động phân tử của họ, nâng cao tính tâm linh của họ, đưa họ đến gần các Thần. Bố thí là điều có lợi cho họ. Về tiền họ cho ư? Chẳng đáng gì. Họ không thiếu tiền.
Bực tức, tôi thốt lên:
-Nhưng gã ấy không mù! Y là một tên trộm.
Thầy Linh hướng nói:
-Này Lobsang người ấy không làm hại ai ca. Người ấy chỉ bán những dịch vụ do y cung ứng. Sau này, khi sang phương Tây, con sẽ thấy những người được gọi là những nhà quảng cáo có những khẳng định trái với sự thật, và những khẳng định đó gây hại cho sức khỏe con người, cho những bé sơ sinh, và biến những cá nhân tương đối lành mạnh về tinh thần thành những kẻ điên loạn.
Lạt ma Dondup vỗ nhẹ vào gốc cây bị đốn và ra hiệu cho tôi ngồi xuống cạnh ngài. Tôi tuân theo và nên gót chân vào lớp vỏ cây.
Ngài nói tiếp:
-Con phải học cách sử dụng cùng lúc vầng khí huyền bí và thuật thần giao cách cảm. Nếu con sử dụng thuật này mà không có thuật nọ, thì con có nguy cơ tiến đến những kết luận sai thực tế, như trong trường hợp người mù đó. Để giải quyết mọi vấn đề, ta cần phải sử dụng mọi khả năng của ta, mọi khả năng mà ta được ban cho. Chiều nay, ta phải vắng mặt, và Đại Lạt ma – y sĩ Chinrobnobo, của bệnh viện Menzekang, sẽ đến nói chuyện với con.
Bằng giọng buồn, tôi thốt lên:
-Thưa ngài, ngài ấy không bao giờ nói chuyện với con, cũng chẳng bao giờ quan tâm đến con.
-Điều đó sẽ thay đổi … bằng cách này hay cách khác … vào chiều nay.
Tôi thầm nghĩ, “Bằng cách này hay cách khác!” Đối với tôi, lời đó có vẻ rất đáng ngại.
Tôi và thầy Linh hướng quay về Thiếc Sơn, và chúng tôi dừng lại một lúc để một lần nữa ngắm những tượng điêu khắc có màu sắc, được đục trong đá, rất cổ xưa nhưng cũng vẫn rất sinh động. Sau đó chúng tôi leo lên con đường mòn dốc đứng, lởm chởm đá sỏi.
Ngài Lạt ma nói:
-Lobsang à, đời sống tựa như con đường mòn này. Đời sống tiến theo một con đường khổ nhục, đầy sỏi đá, khó khǎn và cạm bẫy, nhưng nếu kiên trì, thì ta sẽ lên đến đỉnh.
Khi lên phía trên, chúng tôi nghe có tiếng cồng báo giờ lễ phụng vụ tại Đền và chúng tôi mỗi người mỗi ngã, thầy Linh hướng đến cạnh các Lạt ma và tôi đến cạnh các bạn bè cùng lớp. Sau giờ lễ phụng vụ và sau khi tôi đã ǎn đôi chút, một tu sinh trẻ đến gặp tôi, vẻ khá sợ sệt.
Tu sinh rụt rè nói:
-Cậu Lobsang à, Ngài Đại Lạt ma y sĩ Chinrobnobo muốn gặp cậu ngay tức khắc tại trường Y.
Tôi vuốt lại áo cà sa cho ngay ngắn, hít thở sâu vài cái để làm dịu thần kinh và đi về trường Y.
“À! “Một giọng nói trầm và khỏe cất lên, giọng nói khiến người ta nghĩ đến tiếng tù và của Đền. Tôi nghiêng mình kính cẩn chào ngài Lạt ma. Ngài là một người to cao, tráng kiện với đôi vai rộng. Tôi có cảm tưởng với hai bàn tay to khỏe đó, ngài có thể làm lìa cái đầu của một người ra khỏi cổ và vứt nó xuống sườn núi. Nhưng, trái với điều tôi nghĩ, ngài mời tôi ngồi với một sự cởi mở, thân tình.
Bằng một giọng lớn và trầm, tương tự như tiếng sấm trong núi xa, ngài nói:
-Này con, ta đã nghe nói nhiều về con. Thầy Linh hướng của con, Lạt ma Mingyar Dondup, khẳng định rằng con là một đứa đầy nǎng khiếu, và có những khả năng siêu nhiên lạ lùng. Đó là điều chúng ta sẽ xét đến.
Ngồi đối diện ngài Lạt ma, tôi run sợ. Ngài hỏi:
-Con thấy ta ư? Vậy, con thấy gì?
Càng run sợ hơn, tôi nói ra ý tưởng đầu tiên đã ngang qua tâm trí tôi:
-Thưa Lạt ma y sĩ khả kính, tôi thấy một người rất to lớn và rất khỏe mạnh, đến nỗi khi vào đây con tưởng đó là một qua núi.
Tiếng cười của ngài Lạt ma tạo ra một sự chuyển động trong không khí, ngài ra lệnh:
-Này con, hãy nhìn ta, hãy nhìn vầng khí huyền bí bao quanh ta và cho biết con thấy gì. Hãy cho ta biết ý kiến của con.
Tôi nhìn ngài Lạt ma y sĩ, nhưng không nhìn chǎm, bởi điều đó có thể làm yếu đi vầng khí huyền bí của một người có mặc quần áo. Nói đúng hơn, tôi nhìn về phía ngài mà thôi.
Tôi nói:
-Thưa ngài, trước tiên con thấy đường viền quanh thân thể lý của ngài, một cách mơ hồ, như thân đó đang trong tình trạng không mặc quần áo. Sau đó, con nhận ra một thứ ánh sáng xanh yếu ớt, thật gần của ngài, có màu của khói củi tươi, điều đó cho biết ngài đã làm việc quá cật lực, ngài đã có những đêm dài mất ngủ, trong thời gian gần đây, và nǎng lượng thanh khí của ngài xuống thấp.
Đại Lạt ma y sĩ giương mắt nhìn tôi và gật đầu với vẻ hài lòng.
-Nói tiếp đi!
-Thưa ngài! Vầng khí huyền bí của ngài tỏa ra khoảng ba mét từ ngài, ở mỗi bên. Những màu sắc của nó chồng lên nhau cùng lúc theo chiều dọc và chiều ngang, con thấy có màu vàng, dấu chỉ của tính tâm linh cao. Lúc này, ngài đang ngạc nhiên khi thấy một thiếu niên ở tuổi con có thể nói cho ngài biết nhiều điều, và ngài đang nghĩ rằng dẫu sao thầy Linh hướng của con, Lạt ma Mingyar Dondup, cũng không phải là người kém hiểu biết. Ngài nghĩ rằng sẽ phải xin lỗi Lạt ma Dondup do ngài đã bày tỏ nghi ngờ về những khả năng của con.
Đại Lạt ma y sĩ bật cười. Ngài thích thú thốt lên.
-Con nói đúng! Con nói đúng! Hãy nói tiếp đi!
-Thưa ngài, gần đây ngài đã bị một tai nạn và bị chấn thương ở gan. Chấn thương đó khiến ngài cảm thấy đau những khi ngài cười quá lớn. Và ngài nghĩ đến việc phải dùng đến thảo dược tatura, và xoa bóp. Ngài nghĩ rằng hẳn là do sự định đoạt của số phận khi mà, trong số sau ngàn loại thảo dược, chỉ có thảo dược tatura là khan hiếm.
Ngài Lạt ma y sĩ ngưng cười và nhìn tôi bằng một vẻ trân trọng không che giấu. Tôi nói tiếp:
-Thưa ngài, ngoài ra vầng khí huyền bí bao quanh của ngài còn cho thấy chẳng bao lâu nữa, ngài sẽ là Tu viện trưởng – y sĩ chính yếu của Tây Tạng.
Ngài Lạt ma y sĩ nhìn tôi với vẻ lo âu. Ngài nói:
-Con có một khả năng lớn lao… con sẽ tiến xa. Nhưng đừng bao giờ lạm dụng nó, đừng bao giờ. Điều đó có thể nguy hiểm. Giờ đây, chúng ta hãy vừa uống trà vừa bàn đến vấn đề vầng khí huyền bí bao quanh con người.
Ngài Lạt ma cầm lấy cái chuông nhỏ bằng bạc và lắc mạnh. Vài giây sau, một tu sĩ trẻ vội vã mang trà đến. Trong khi ngồi đây, tôi thầm nghĩ, tất cả những Lạt ma cấp cao đó đều được dành cho những cǎn phòng có vị trí rất đẹp của tu viện. Ở phía dưới chân, tôi có thể trông thấy những công viên rộng lớn của Lhassa, và ở tầm cánh tay giương ra của tôi là những ngọn núi Dodpal và Khati, Xa hơn về phía trái là ngọn Chorten của khu vực chúng tôi, và ngọn Kesar Lhakhang, sừng sững như một lính canh. Ở phía bên kia đường, xa hơn về hướng bắc, là nơi ưa thích của tôi; ngự trị trên cảnh quan đó là Pargo Kaling (cửa Tây) với cái bóng đơn độc của nó.
Tôi hỏi:
-Thưa ngài, điều gì tạo ra vầng khí huyền bí bao quanh con người?
-Như thầy Linh hướng, Lạt ma Mingyar Dondup, đã nói với con, não con người nhận những thông điệp từ Siêu Ngã. Những dòng điện phát sinh trong não. Toàn bộ sự sống là dạng nǎng lượng xuất hiện trong các hạt nhất định, là điện nǎng. Khí huyền bí bao quanh con người là một trong những biểu hiện của nó. Chung quanh đầu con người là, như con đã biết, một quầng sáng, vầng hào quang. Những bức tranh cổ về một vị thánh hoặc vị thần thì luôn có vầng hào quang đó ở sau đầu ngài.
-Thưa Lạt ma khả kính, không mấy người có thể trông thấy khí huyền bí và vầng hào quang. Tại sao vậy?
-Một số người không nhìn nhận có vầng khí huyền bí, và họ không thể trông thấy chúng. Họ quên rằng, họ cũng chẳng thể trông thấy không khí, vậy mà nếu không có không khí, họ chẳng thể tồn tại! Một số người – số rất ít – nhận ra vầng khí huyền bí. Số khác thì không. Một số cá nhân có thể nghe được những tần số cao hơn hoặc thấp hơn mà những người khác không thể nghe thấy. Điều đó chẳng liên quan gì đến mức độ tâm linh của người quan sát, cũng như việc biết đi cà kheo không liên quan gì đến những phẩm chất đạo đức của một con người. (Ngài mỉm cười và nói tiếp) Trước kia, ta đi cà kheo rất giỏi, chẳng kém gì con. Giờ đây, do ta vạm vỡ ra, nên không còn có thể.
Tôi mỉm cười khi thầm nghĩ, để đi cà kheo, ngài Lạt ma này hẳn phải dùng những thân cây cỡ lớn.
Đại Lạt ma y sĩ nói:
-Khi các Lạt ma chúng ta giải phẫu để khai mở CON MẮT THỨ BA của con, chúng ta đã nhận thấy rằng một số phần của thuỳ trán của con không giống với những thuỳ trán thông thường và chúng ta kết luận, về mặt thể lý, con được sinh ra để trở thành một nhà thấu thị và nhà ngoại cảm. Đó là một trong những lý do khiến con đã được và sẽ được rèn luyện một cách rất chu đáo. (Ngài nhìn tôi với vẻ hài lòng và nói tiếp) Con sẽ ở lại Trường Y này trong vài ngày. Các Lạt ma chúng ta sẽ kiểm tra con để xem liệu có thể tǎng cường những khả năng của con và dạy cho con nhiều điều hơn.
Tôi nghe thấy nơi ngưỡng cửa có tiếng ho nho nhỏ: thầy Linh hướng của tôi đi vào phòng. Tôi đứng bật dậy và kính cẩn chào ngài; Lạt ma Chinrobnobo cũng đứng dậy chào ngài. Thầy Linh hướng mỉm cười.
Ngài nói với Lạt ma Chinrobnobo:
-Tôi đã nhận thông điệp qua thần giao cách cảm của tôn huynh. Và tôi gấp rút đến đây hầu được nghe tôn huynh xác nhận về những đánh giá cao của tôi về cậu bạn trẻ của tôi đây.
Thầy Linh hướng mỉm cười với tôi và ngồi xuống.
Lạt ma Chinrobnobo cũng mỉm cười. Ngài nói:
-Tôn huynh khả kính, tôi xin nghiêng mình trước sự hiểu cao học rộng của tôn huynh, và xin nhận cậu trai này để đưa cậu trải qua một vài xét khảo. Tôn huynh là người có nhiều tài nǎng, nhưng có lẽ đây là lần đầu tôn huynh tìm được một thiếu niên như cậu này.
Trước sự ngạc nhiên của tôi, ca hai Lạt ma đều bật cười, và đưa tay ra phía sau, Lạt ma Chinrobnobo lấy ra, tôi không biết từ đâu, ba hủ đựng qua hồ đào ngâm dấm. Có lẽ do cái vẻ ngốc nghếch của tôi, nên hai Lạt ma quay sang nhìn tôi, và càng cười nhiều hơn.
Thầy Linh hướng nói:
-Lobsang à, con không sử dụng khả năng ngoại cảm của con. Bởi nếu con sử dụng, hẳn con biết Lạt ma khả kính đây và ta đã mắc phải cái tội đánh cược. Ta và ngài đây đã cược rằng nếu con xác nhận những khẳng định của ta, thì ngài Lạt ma y sĩ sẽ cho con ba hủ đựng qua hồ đào ngâm dấm, và nếu con không tỏ ra có khả năng, thì ta sẽ phải đi xa và thực hiện một số công việc y học cho ngài đây.
Lạt ma mỉm cười với tôi, thầy Linh hướng nói tiếp:
-Dĩ nhiên, ta sẽ thực hiện chuyến đi đó và con sẽ theo ta. Nhưng trước tiên, chúng ta cần phải sắp xếp mọi việc cái đã. (Ngài chỉ tay về ba cái hủ) Khi rời phòng này, con hãy nhớ mang theo chúng. Đó là chiến lợi phẩm của con, và con là kẻ chiến thắng.
Tôi thấy mình hoàn toàn đáng cười, rõ ràng là tôi không thể sử dụng những khả năng ngoại cảm của tôi đối với hai Lạt ma cao cấp đó. Va lại, tôi không dám nghĩ đến chuyện sử dụng những khả năng đó đối với hai ngài. Tôi yêu mến thầy Linh hướng của tôi, và tôi rất kính trọng tri thức và sự minh triết của Đại Lạt ma y sĩ Chinrobnobo. Quả là hỗn láo và là một chứng cứ của sự thiếu giáo dục khi nghe lén cuộc nói chuyện của họ, dẫu là qua thuật ngoại cảm.
Lạt ma y sĩ Chinrobnobo quay sang tôi và nói:
-Những tình cảm của con rất cao đẹp. Ta thực sự sung sướng khi được đón con. Các Lạt ma chúng ta sẽ giúp con tiến bộ.
Thầy Linh hướng nói với tôi:
-Lobsang à, giờ đây con sẽ ở lại trong khu này, có thể trong một tuần, và con sẽ được chỉ dạy nhiều điều về vầng khí huyền bí. (Đọc được ánh mắt của tôi, ngài nói tiếp) “Ồ! Con cho rằng đã biết tất cả về vấn đề đó. Con có thể trông thấy vầng khí huyền bí và đọc được ý nghĩa của nó, nhưng giờ đây còn cần phải học biết những “lý do” và những “cách thức” liên quan đến vầng khí huyền bí, và con cần phải biết về mức độ giới hạn của tầm nhìn về con người được dùng làm đối tượng quan sát. Giờ thì ta phải đi đây. Hẹn gặp con ngày mai.
Thầy Linh hướng đứng dậy và, dĩ nhiên, chúng tôi cũng đứng dậy theo. Ngài cáo từ và rời khỏi phòng.
Lạt ma Chinrobnobo quay sang tôi và nói:
-Lobsang à, con không nên quá lo sợ. Hãy yên tâm đi, chẳng có gì để phải sợ. Các Lạt ma chúng ta chỉ đơn giản tìm cách giúp con và tǎng tốc sự tiến hoá của con. Trước tiên, ta hãy nói đôi chút về vầng khí huyền bí bao quanh con người. Dĩ nhiên, con có thể nhìn thấy rất rõ vầng khí huyền bí đó, và con có thể diễn giải nó, nhưng hãy mường tượng rằng con không có cái khả năng đặc biệt đó, không có nǎng khiếu trời cho đó. Con hãy đặt con vào vị trí của chín mươi chín phần trǎm, hoặc hơn nữa, của dân số thế giới.
Một lần nữa, ngài Lạt ma lại lắc cái chuông nhỏ bằng bạc, và một lần nữa tu sĩ – phục vụ mang trà vào. Một điều khá thú vị cần phải nói là ở đây, tại Tây Tạng, đôi khi mỗi ngày chúng tôi uống đến khoảng sáu chục tách trà. Tây Tạng là một xứ lạnh, và trà nóng giúp chúng tôi ấm người; ngoài ra, chúng tôi không thể mua các loại thức uống ở ngoài, bởi chúng không được bày bán như ở các nước phương Tây. Chúng tôi chỉ có hai thứ, trà và tsampa, trừ khi có người hao tâm mang về từ nước ngoài, như Ấn Độ chẳng hạn, chứ không thể tìm thấy tại Tây Tạng.
Tôi và Lạt ma Chinrobnobo ngồi xuống. Ngài nói tiếp:
-Chúng ta đã bàn về nguồn gốc của vầng khí huyền bí. Đó là lực lượng trọng yếu của cơ thể con người. Ta giả sử rằng, ngay lúc này, con không thể nhìn thấy vầng khí huyền bí, con chẳng biết gì về vấn đề đó, bởi chỉ xuất phát từ giả thuyết đó, ta mới có thể nói cho con biết về những gì mà một người phàm có thể thấy và không thấy.
Tôi cúi đầu để chứng tỏ tôi hiểu lời ngài. Tất nhiên, tôi bẩm sinh có khả năng nhận biết khí huyền bí và những hiện tượng tương tự, và những khả năng đó được tǎng cường sau khi tôi được phẫu thuật “Con Mắt Thứ Ba”. Trước kia, tôi thường cho rằng tôi đã nhìn thấy, bởi tôi nghĩ rằng những người khác cũng có khả năng nhìn như tôi. Và tôi còn nhớ, một hôm, tôi đã nói cho người đàn ông đó vẫn còn sống – người mà lão Tzu và tôi đã phát hiện nằm bên lề đường. Lão Tzu bảo rằng tôi đã lầm, rằng người đàn ông đó đã chết. Và tôi đã thốt lên, “Nhưng, bác Tzu à, những ánh sáng của ông ấy chưa tắt!” May thay, một loạt gió đã cuốn đi lời tôi, và lão Tzu chẳng hiểu tôi nói gì. Song do bị thôi thúc trong lòng, lão Tzu đã nhìn kỹ người đàn ông đó, và phát hiện ông ta vẫn còn sống! Nhưng tôi không đề cập đến điều tôi biết.
-Lobsang à, những người phàm mắt tục, nam và nữ, thì không thể thấy vầng khí huyền bí bao quanh con người… Một số người tin chắc rằng không hề có vầng khí huyền bí đó. Hẳn những người đó cũng có thể cho rằng không hề có không khí, bởi họ không nhìn thấy nó. (Ngài Lạt ma nhìn tôi để xem tôi có lắng nghe không. Hài lòng bởi sự chǎm chú của tôi, ngài gật đầu và nói tiếp).
-Bao lâu còn sống trong một thân thể, thì thân thể tỏa ra một vầng khí huyền bí, mà những ai có khả năng, có tư chất, có nǎng khiếu trời cho, đều có thể nhận thấy. Này Lobsang, ta phải cho con biết rằng, để có thể nhìn rõ vầng khí huyền bí của một đối phương, thì đối tượng đó cần phải hoàn toàn trần truồng. Sau này, ta sẽ giải thích cho con hiểu lý do. Để diễn giải một cách thông thường về vầng khí huyền bí ta chỉ cần nhìn cá nhân đó khi họ đang trong tình trạng thông thường, nghĩa là có mặc quần áo. Nhưng nếu con muốn xem xét vầng khí huyền bí để tiến hành một thử nghiệm y học, thì đối tượng của con phải cởi bỏ hết quần áo. Lớp thanh khí bao bọc hoàn toàn cơ thể và lớp đó trải ra quanh thân ở một khoảng cách từ 0cm30 đến 8 hoặc 10 centimet. Đó là một lớp mù màu xanh, tuy cái từ “lớp mù” không mấy thích hợp, bởi người ta có thể nhìn ngang qua một cách rõ ràng. Cái lớp vỏ bao bằng thanh khí đó là một sự toát ra hoàn toàn mang tính động vật, nó chủ yếu là phát sinh từ sức sống mạnh mẽ thuộc động vật của cơ thể, đến nỗi vầng khí huyền bí của một người hoàn toàn khỏe mạnh có thể tỏa ra từ 8 đến 10 centimet từ cơ thể. Lobsang à, chỉ những ai có nǎng khiếu nhất mới có thể nhận ra cái lớp kia, bởi giữa vỏ bao thanh khí và vầng khí huyền bí là một dải băng khác, rộng khoảng 7cm5, và cần phải có những khả năng dị thường mới có thể nhận ra những màu sắc của dải băng đó. Thú nhận rằng ta chỉ thấy ở đó sự trống rỗng.
Sự thú nhận đó của ngài Lạt ma làm tôi thích thú, bởi tôi có thể nhận ra mọi màu sắc của không gian đó. Và tôi nói ngay cho ngài Lạt ma biết:
Lạt ma Chinrobnobo nói:
-Đúng vậy, Lobsang! Ta biết con có thể nhìn thấy dải băng đó, bởi con đặc biệt có nǎng khiếu trong lĩnh vực đó, nhưng ta giả vờ cho rằng con không thể nhìn thấy vầng khí huyền bí, vì ta phải dành cho con mọi giải thích cần thiết.
Ngài Lạt ma nhìn tôi bằng ánh mắt quở trách, có lẽ vì tôi đã ngắt lời ngài. Một lúc, sau khi ngài nhận thấy rằng tôi đã đủ nhận thức để không ngắt lời ngài nữa, ngài nói tiếp:
-Vậy thì, trước tiên là một lớp thanh khí. Sau đó là cái vùng mà đại đa số trong chúng ta chẳng thấy gì khác hơn là cái vẻ của một không gian trống rỗng. Ở ngoài vùng đó là vầng khí huyền bí, như ta gọi, vầng khí huyền bí không phụ thuộc nhiều vào sức sống mạnh mẽ mang tính động vật, mà phụ thuộc vào sức sống mạnh mẽ thuộc tinh thần. Nó gồm có những dải băng xoay tròn và những đường rạch có tất cả những màu sắc của quang phổ – nói khác hơn, nó có rất nhiều những màu sắc mà mắt người không thể nhận ra, bởi vầng khí huyền bí được nhận biết bởi những giác quan khác, chứ không bởi thị giác. Mỗi cơ quan của cơ thể con người phát ra chùm ánh sáng của riêng nó, chùm tia sáng của nó, và chùm đó biến đổi theo ý nghĩ của cá nhân. Những dấu chỉ đó có một cách rất rõ nét và rất nhiều trong vùng thanh khí và trong không gian trải rộng ở bên kia, và khi cơ thể con người được nhìn trong toàn bộ sự trần truồng của nó, thì vầng khí huyền bí có vẻ làm rõ thêm những triệu chứng của sức khỏe và bệnh tật của nó; do vậy, những ai trong chúng ta có khả năng thấu thị thích hợp, thì có thể chuẩn đoán tình trạng sức khỏe của một cá nhân. (Tôi đã biết tất cả điều đó, và đối với tôi đó chỉ là trò con nít, và tôi đã có những kinh nghiệm thuộc loại đó từ sau lần phẫu thuật “Con Mắt Thứ Ba”. Tôi biết có những nhóm Lạt ma y sĩ khám bệnh khi người bệnh hoàn toàn trần truồng và giúp họ lành bệnh. Tôi cho rằng tôi sẽ được đào tạo để có thể trị bệnh như các Lạt ma đó. Lạt ma Chinrobnobo nói tiếp) giờ đây, con sẽ được chỉ dạy một cách đặc biệt, rất chuyên sâu, và khi sang phương Tây, ta hy vọng và tin rằng con sẽ chế tạo một cái máy mà nhờ đó những người không có một khả năng huyền bí nào cũng có thể nhận ra vầng khí huyền bí bao quanh con người. Khi trông thấy vầng khí huyền bí, các bác sĩ sẽ phát hiện điều gì đang không ổn nơi một người bệnh và có thể chữa lành bệnh. Bằng cách nào ư? Chúng ta sẽ bàn đến chuyện đó sau. Ta biết rằng tất cả những điều đó nghe chán ngắt, rằng con đã biết khá nhiều điều, nhưng vì có một khả năng thấu thị bẩm sinh, nên có lẽ con không hề nghĩ đến quá trình có tính máy móc của khả năng đó, và đó là một sự thiếu sót cần phải lấp đầy bởi nếu ta am hiểu một vấn đề một cách nửa vời, thì ta chỉ được chỉ dạy phân nửa và chỉ hữu ích lưng chừng. Và con, con sẽ là một người rất hữu ích. Nhưng Lobsang à, chúng ta hãy ngưng cuộc nói chuyện ở đây. Con hãy về phòng con. Người ta đã dành cho con một phòng ở đây. Con có thể nghỉ ngơi và suy nghĩ về mọi vấn đề mà chúng ta đã nói qua. Trong tuần này, con được miễn những lễ phụng vụ, đó là lệnh của Đấng Thánh Thiện. Mọi nǎng lượng, mọi nỗ lực của con phải được hướng đến mục đích là học tường tận những môn mà ta và những bạn đồng sự của ta sẽ giảng dạy cho con.
Ngài Lạt ma đứng dậy và tôi đứng theo. Một lần nữa, ngài cầm lấy cái chuông nhỏ bằng bạc và lắc mạnh. Tu sĩ phục vụ chạy vào. Ngài Lạt ma nói:
-Cậu hãy chu đáo với Lobsang Rampa đây. Như cậu đã biết, đây là một vị khách có hạng. Hãy tiếp đãi vị khách này như một tu sĩ cấp cao.
Lạt ma Chinrobnobo quay sang tôi và nghiêng mình chào; tôi vội vã đáp lễ.
Sau đó, tu sĩ phục vụ ra hiệu cho tôi đi theo.
Đột nhiên, Lạt ma Chinrobnobo nói lớn:
-Khoan đã! Con đã quên những hủ hồ đào!
Tôi vội vã trở vào phòng, cầm lấy những cái hủ quí giá rồi lại theo tu sĩ phục vụ.
Chúng tôi dọc theo một hành lang hẹp, và tu sĩ phục vụ đưa tôi vào một cǎn phòng với cửa sổ nhìn về bến đò sông Phúc Giang.
Tu sĩ phục vụ nói với tôi:
-Thưa thầy, đây là cái chuông nhỏ. Nếu cần gì, thầy cứ gọi. Tôi sẵn sàng phục vụ Thầy.
Tu sĩ quay gót và rời khỏi phòng. Tôi đến bên cửa sổ. Cảnh quan Thung Lũng Thiêng làm tôi mê hoặc, khi con đò bằng da bò Tây Tạng rời bến và người đưa đò dùng sào để chống giữa dòng nước. Ở bờ bên kia có khoang ba hoặc bốn người, mà xét theo lối ǎn mặc của họ, hẳn là những quan chức. Điều đó càng được khẳng định hơn, xét theo cái cách khúm núm của người đưa đò. Trong vài phút, tôi nhìn cảnh tượng đó và, đột nhiên, tôi cảm thấy rất mệt. Tôi ngồi ngay xuống và, trước khi kịp hiểu điều gì đó xảy ra cho tôi, tôi ngã ngửa người trong trạng thái mê ngủ.
Nhiều giờ trôi qua trong những tiếng lách cách của các cối kinh. Rồi đột nhiên, tôi bật dậy, run rẩy vì khiếp đảm. Giờ lễ phụng vụ! Tôi đã trễ giờ lễ! Nghiêng đầu sang một bên, tôi lắng nghe ở một nơi nào đó, có tiếng tụng kinh. Tôi đã hiểu ra… tôi đứng dậy và chạy về phía cửa. Cái cửa không còn đó! Thật dữ dội, thân tôi va vào bức tường đá, và tôi ngã dài. Một tia sáng màu trắng-xanh toé lên trong óc tôi khi đầu tôi va vào đá, nhưng tôi tỉnh trí ngay và vội vã đứng dậy. Hoang sợ khi nghĩ rằng mình trễ giờ lễ, tôi chạy lòng vòng trong phòng, nhưng phòng không có cửa. Tệ hơn nữa… phòng cũng chẳng có cửa sổ.
Trong tǎm tối, có một giọng nói:
-Lobsang! Thầy bịnh ư?
Như một gáo nước lạnh, giọng nói của tu sĩ phục vụ đưa tôi về thực tại. Cả thẹn, tôi nói:
-À! Tôi tưởng tôi trễ giờ lễ phụng vụ. Tôi quên rằng tôi đa được miễn.
Có tiếng cười được dằn lại, và cái giọng đó nói tiếp:
-Đêm nay tối quá, phai thắp đèn mới được.
Chút ánh sáng loé lên ở ngưỡng cửa, ở nơi không ngờ nhất, và tu sĩ phục vụ đi về phía tôi.
Tu sĩ nói:
-Tôi nghe những tiếng ầm ầm như thể cả một đàn bò Tây Tạng bị xổng và chạy vào đây.
Nụ cười của tu sĩ phục vụ xua đi mọi sự thiếu tế nhị của lời nói vừa rồi. Tôi ngồi xuống và tu sĩ rời khỏi phòng, mang theo cây đèn. Đàng sau ô vuông có phần ít tối hơn của cửa sổ, tôi thấy một sao bǎng đang ngang qua không gian vô tận. Tôi nằm nghiêng và chìm vào giấc ngủ.
Buổi điểm tâm gồm có tsampa và trà. Đó là món bổ dưỡng, tái tạo sức khỏe, nhưng không mấy ngon miệng. Sau đó, tu sĩ phục vụ đến gần và nói với tôi:
-Nếu đã sẵn sàng, xin thầy hãy theo tôi:
Tôi đứng dậy và theo tu sĩ rời khỏi phòng.
Lần này, chúng tôi theo một con đường khác, và đi vào khu mà tôi không hề biết của tu viện Chakpori. Chúng tôi xuống những cầu thang dài bất tận, và tôi nghĩ rằng chúng tôi đang tiến sâu vào làng Thiết Sơn. Thứ ánh sáng duy nhất ở đây là ánh sáng từ hai cây đèn dầu chúng tôi mang theo. Cuối cùng, tu sĩ phục vụ dừng lại và chỉ tay về phía trước.
-Thầy hãy tiếp tục đi thẳng về phía trước và vào cǎn phòng bên trái. Tôi gật đầu chào từ biệt tu sĩ. Tu sĩ quay gót và đi ngược trở ra.
Tôi tiếp tục đi và thầm nghĩ điều gì đang chờ tôi nữa đây. Phía trước tôi là cǎn phòng bên trái. Điều trước tiên khiến tôi chú ý là một cái cối kinh nằm ở giữa phòng. Tôi chỉ kịp liếc nhìn nó – tuy vậy, tôi có thể nhận thấy đó là một cối kinh quái đan – bởi có giọng gọi tên tôi:
-À, Lobsang, chúng ta rất vui khi thấy con ở đây.
Tôi ngước mắt nhìn thấy thầy Linh hướng của tôi, đứng giữa, và hai bên ngài là Đại Lạt ma y sĩ Chinrobnobo và một Lạt ma người Ấn tên là Marfata. Lạt ma Marfata trước đây đã học ngành y ở phương Tây, và đã trải qua một thời gian tại Đại Học Heidelbeng của Đức. Giờ đây, ngài là một tu sĩ Phật giáo, một Lạt ma.
Lạt ma người Ấn nhìn tôi bằng con mắt nhìn tinh, sắc bén, đến nỗi tôi có cảm tưởng ngài đang xem xét lớp vai của chiếc áo cà sa của tôi. Ngài hình như đang nhìn xuyên thấu tôi. Song, ngày hôm ấy, lương tâm tôi hoàn toàn yên ổn nên tôi có thể chịu được cái nhìn đó. Xét cho cùng, tại sao tôi phải nhìn xuống chứ? Tôi xứng đáng, bởi tôi là đệ tử của Lạt ma Mingyar Dondup và Đại Lạt ma y sĩ Chinrobnobo. Đôi môi nghiêm khắc của Lạt ma Marfata nhếch lên một nụ cười khiến tôi có cảm tưởng ngài đang rất đau đớn. Ngài cúi đầu và quay sang thầy Linh hướng của tôi:
-Vâng, tôi tin rằng cậu trai này là đúng như tôn huynh đã mô tả.
Thầy Linh hướng mỉm cười… nhưng với một sự tự nhiên và tự phát khiến ta ấm lòng.
Lạt ma Chinrobnobo nói:
-Này Lobsang, sở dĩ chúng ta đưa con vào cǎn phòng bí mật này là vì muốn cho con xem một số điều, và trao đổi quan điểm với con. Ta và thầy Linh hướng của con đã kiếm tra con và hài lòng về những khả năng của con, những khả năng ấy sẽ phát triển. Ngài Marfata, đồng liêu người Ấn của ta đây, không tin rằng ở Tây Tạng lại có người kỳ tài đến thế. Ta và Lạt ma Dondup mong rằng con sẽ xác nhận những khẳng định của chúng ta.
Tôi nhìn Lạt ma người Ấn và thầm nghĩ: “Đây là một người có đánh giá cao về chính mình.”
Tôi quay sang Lạt ma Chinrobnobo và nói:
-Thưa Lạt ma, Đấng Thánh Thiện đã rộng lượng cho con được yết kiến ngài trong một số dịp, và ngài đã yêu cầu con không cung cấp những bằng chứng bởi vì, ngài đã nói rằng, bằng chứng chỉ là một biện pháp tạm thời của một đầu óc lười nhác. Những người đòi hỏi bằng chứng là những người không có khả năng chấp nhận sự thật từ những bằng chứng đó, ngay cả khi nó được chứng minh một cách hiển nhiên.
Lạt ma y sĩ cười vang, và thầy Linh hướng cũng cười; họ nhìn Lạt ma Marfata trong khi Lạt ma này nhìn chǎm tôi một cách chê bai.
Lạt ma người Ấn nói:
-Này con, con nói hay, nhưng nói thì chẳng thể chứng tỏ gì, như con đã tự nhận biết. Giờ đây, con hãy cho ta biết, con thấy gì ở ta?
Câu hỏi đó làm tôi bối rối, bởi tôi thấy nơi con người đó nhiều điều làm tôi không thích.
Tôi đáp:
-Thưa ngài, nếu con nói ra điều con thấy thì con e rằng sẽ xúc phạm ngài và ngài sẽ xem con là đứa vô lễ.
Thầy Linh hướng gật đầu tỏ ý tán thành, trong khi Lạt ma y sĩ cười rộng miệng. Lạt ma người Ấn nói:
-Này con, hãy cho ta biết con thấy gì nào, bởi ta không có thời gian để nói những chuyện vô bổ.
Tôi nhìn Lạt ma người Ấn một lúc, và sự mãnh liệt của cái nhìn của tôi khiến Lạt ma phải bối rối, rồi tôi nói:
-Thưa ngài khả kính, ngài đã ra lệnh cho con phải nói ra một cách trung thực, và theo con hiểu thầy Linh hướng của con và Lạt ma y sĩ đây cũng muốn thế. Thưa ngài, đây là lần đầu tiên con được thấy ngài, tuy vậy vầng khí huyền bí và những ý tưởng của ngài cho phép con khẳng định rằng: ngài là người đã chu du nhiều nơi và đã vượt qua các đại dương của Trái Đất này. Ngài đã đến một hòn đảo nhỏ, con không biết tên, mà cư dân ở đó đều là những người Da Trắng. Ở gần hòn đảo nhỏ có một hòn đảo nhỏ nữa, như một chú ngựa non kề mẹ. Ngài đã rất thù ghét những người Da Trắng đó, và họ cũng muốn chống lại ngài, vì một sự kiện liên quan đến… (Đến đây, tôi do dự, vì hình ảnh rất tối; hẳn là một chuyện mà tôi không thể hiểu. Tuy nhiên, với một nỗ lực lớn, tôi nói tiếp) … liên quan đến một thành phố Ấn Độ mà theo con nghĩ là Calcutta, và liên quan đến một hốc đen, nơi những cư dân của hòn đảo đó đã ở trong một tình thế rất tệ. Họ đã cho rằng ngài hẳn đã giúp họ tránh được những rắc rối đó thay vì gây ra cho họ.
Đại Lạt ma y sĩ bật cười. Điều đó làm tôi thích thú, bởi nó cho thấy tôi đang đi đúng đường. Thầy Linh hướng vẫn bình thản, nhưng Lạt ma người Ấn thì thốt lên tiếng càu nhàu. Tôi nói tiếp:
-Sau đó, ngài đã sang một nước khác và con có thể đọc rõ trong tâm trí ngài cái tên Heidelbeng. Ở nước đó, ngài đã theo học ngành y và theo những phương pháp thực hành dã man, hung bạo. Ngài đã cắt bỏ, đã cưa và cắt cụt. Ngài không áp dụng những phương pháp được dùng tại Tây Tạng. Nói tóm lại, người ta đã cho ngài một tờ giấy lớn với nhiều con dấu được đóng lên đó. Cũng dựa theo vầng khí huyền bí của ngài, con thấy ngài đang bị bệnh. (Tôi hít một hơi sâu để dự phòng cho những lời đáp trả mà tôi sẽ nhận.) Cǎn bệnh của ngài là không thuốc chữa. Đó là chứng bệnh mà những tế bào của cơ thể bị rối loạn và phát triển như cỏ dại, không theo quá trình thông thường, nhưng gia tǎng và tấn công những cơ quan trọng yếu của cơ thể. Cuộc sống của ngài sẽ kết thúc trên trần gian này do bản chất của những ý nghĩ của ngài là chỉ thấy cái ác trong tâm trí của đồng loại.
Trong một lúc – tưởng chừng cả thế kỷ – mọi người đều im lặng. Sau đó, Lạt ma Chinrobnobo nói:
-Lobsang à, con có lý. Rất có lý!
Lạt ma người Ấn nói:
-Cậu trai này hẳn được ai đó chỉ dẫn.
Thầy Linh hướng lên tiếng:
-Thưa ngài, không ai trong chúng tôi từng nói đến trường hợp của ngài. Lobsang đây vừa cho chúng tôi biết nhiều điều mà chúng tôi không hề biết, bởi chúng tôi không quan sát vầng khí huyền bí của ngài cũng như tâm trí ngài, do ngài không yêu cầu chúng tôi. Nhưng, điều mà chúng tôi quan tâm là biết rằng Lobsang có cái khả năng đó và chúng tôi giúp cậu ấy phát triển nó hơn. Đây là nơi và là lúc không được dùng để tranh cãi. Chúng ta cần phải thực hiện một công việc nghiêm túc. Này Lobsang, hãy theo ta!
Thầy Linh hướng đứng dậy và dẫn tôi đến một Cối Kinh lớn. Tôi nhìn cái cỗ máy quái đản đó và biết nó không phải là một Cối Kinh. Đó là một cỗ máy cao khoảng một mét hai mươi và rộng một mét nǎm mươi. Ở hai bên nó có hai cửa sổ nhỏ, và tôi thấy chúng được lồng kính. Phía trước cỗ máy, đặt lệch tâm, là hai cửa sổ lớn hơn. Ở hông bên kia là một cái cán lớn. Đối với tôi, cái máy này là cả một bí ẩn, bởi tôi không biết nó được dùng làm gì.
Lạt ma Chinrobnobo nói với tôi:
-Nhờ vào cái máy này mà những người không có khả năng thấu thị có thể trông thấy vầng khí huyền bí. Lạt ma Marfata đến đây để được các Lạt ma chúng ta khám bệnh và ngài không muốn chúng ta tiết lộ bệnh của ngài. Chúng ta đưa ngài ấy đến đây để ngài được chuẩn đoán nhờ vào cái máy này. Nếu đồng ý thì ngài ấy sẽ cởi áo cà sa hầu con có thể nhìn và cho biết bệnh tình của ngài. Sau đó, ta sẽ vận hành cái máy này để xem sự chuẩn đoán của con và cái máy có khác nhau không.
Thầy Linh hướng chỉ tay về một điểm trên bức tường âm u. Lạt ma người Ấn đến đứng trước cái điểm đó, cởi bỏ áo cà sa và quần. Ngài áp sát vào tường, bất động, trần truồng, với tấm thân màu tượng đồng.
Thầy Linh hướng ra lệnh cho tôi:
-Này Lobsang, con hãy nhìn kỹ ngài Lạt ma ấy và cho chúng ta biết con thấy gì.
Tôi nhìn Lạt ma người Ấn. Tôi không nhìn thẳng mà nhìn nghiêng. Tôi như thể không làm cho thích hợp tầm nhìn của tôi, bởi đó là cách tốt nhất để nhìn vầng khí huyền bí. Nói khác hơn, tôi không sử dụng tầm nhìn thông thường bằng hai mắt của tôi, nhưng tôi sử dụng riêng biệt mỗi mắt. Đó là điều khó giải thích, nhưng điều đó chủ yếu là nhìn một mắt về phía trái và một mắt về phía phải, và là một cách thức – một cái mẹo – mà hầu hết mọi người đều có thể học.
Tôi nhìn kỹ Lạt ma người Ấn: vầng khí huyền bí của ngài lấp lánh và dao động. Tôi thấy ngài là một người đáng chú ý, có những khả năng tri thức cao nhưng, khổ nỗi, toàn bộ tầm nhìn của ngài về thế giới của ngài đã bị sai lạc do trạng thái bệnh hoạn bí ẩn mà ngài mang trong người. Trong khi xem xét ngài, tôi lớn tiếng nói lên những ý nghĩ của tôi, một cách chính xác, không thêm không bớt. Tôi không nhận thấy rằng thầy Linh hướng và Lạt ma y sĩ đang rất quan tâm đến những lời của tôi.
Tôi nói:
-Rõ ràng, chứng bệnh này là hậu quả của nhiều cǎng thẳng đã tác động đến cơ thể. Lạt ma người Ấn đã gặp phải nhiều ức chế, và nhiều thǎng trầm. Đó là những điều gây hại cho sức khỏe, và làm rối loạn các tế bào đã tìm cách thoát khỏi sự kiểm soát của Siêu Ngã. Chính vì thế mà ngài đang đau ở đây (Tôi chỉ vào vùng gan của ngài), và vì tính tình ngài hay cáu gắt, nên cứ mỗi lần ngài tức giận, thì chứng bệnh lại trầm trọng thêm. Xét theo vầng khí huyền bí của ngài, thì có thể kết luận rằng nếu ngài trầm tĩnh hơn, thanh thản và hiền từ hơn, như Lạt ma Mingyar Dondup đây, thì ngài sẽ sống lâu hơn ở trần gian này, và hoàn thành công việc của ngài ở một mức độ rộng lớn hơn mà sẽ không phải đầu thai ở cõi này.
Một lần nữa, sự thinh lặng phủ xuống, và tôi hài lòng khi thấy Lạt ma người Ấn gật đầu như thể hoàn toàn đồng ý về sự chuẩn đoán của tôi. Lạt ma Chinrobnobo quay sang cỗ máy kỳ quái và nhìn vào những cửa sổ nhỏ. Thầy Linh hướng cầm lấy cái cán của máy và quay càng lúc càng nhanh hơn cho đến khi, nghe theo lời Lạt ma Chinrobnobo, ngài giữ ổn định tốc độ. Lạt ma Chinrobnobo xem xét cỗ máy trong một lúc, rồi lại đứng lên. Không nói nǎng gì, thầy Linh hướng thay chỗ Lạt ma Chinrobnobo, trong khi Lạt ma này thay ngài quay cái máy.
Sau khi đã xem xét, họ đến gần nhau và trao đổi qua thần giao cách cảm. Tôi không tìm cách nắm bắt những ý nghĩ của họ, bởi làm như thế là vô lễ. Cuối cùng, họ quay sang Lạt ma người Ấn và nói:
-Tất cả những gì Lobsang Rampa đã nói với ngài là chính xác. Chúng tôi đã kỹ lưỡng xem xét vầng khí huyền bí của ngài và nghĩ rằng ngài đang bị ung thư gan. Chúng tôi cho rằng sở dĩ như thế là vì ngài có tính tình thuộc mật đen, nguyên nhân gây sự u sầu, gây bệnh tưởng. Nhưng nếu ngài chọn một cuộc sống thanh thản, thì chúng tôi tin rằng ngài sẽ sống thêm một số nǎm và qua đó ngài có thể hoàn tất công việc của ngài. Chúng tôi sẵn sàng thực hiện những điều cần thiết để ngài được phép ở lại tu viện Chakpori này, nếu ngài muốn.
Lạt ma người Ấn bàn bạc một lúc, rồi ngài ra hiệu cho Lạt ma Chinrobnobo, và hai người rời khỏi phòng. Vỗ vai tôi, thầy Linh hướng nói:
-Con giỏi lắm, Lobsang. Giờ đây, ta sẽ cho con xem cái máy này.
Ngài đến bên cái máy lạ lùng đó, và nâng cái nắp của một bên máy lên. Toàn bộ cái máy đang chuyển động và, ở bên trong, tôi thấy một loạt những cánh tay đang tỏa ra từ một trục chính. Ở đầu mút những cánh tay đó là những lǎng kính bằng thuỷ tinh màu đỏ hồng ngọc, xanh, vàng và trắng. Khi quay cái cán, những cu roa kết hợp cái cán với trục thuyền vào các cánh tay một chuyển động quay, và tôi nhận thấy mỗi lǎng kính lần lượt được đưa vào tầm mà ta có thể thấy qua hai thị kính. Sau khi giải thích cách thức vận hành của máy, thầy Linh hướng nói thêm:
-Dĩ nhiên, đây là một hệ thống rất thô thiển, rất sơ khai. Sở dĩ nó được dùng là để thử nghiệm với hy vọng một ngày nào đó, chúng ta sẽ tạo ra một cái máy nhỏ gọn hơn. Lobsang à, con sẽ chẳng bao giờ cần dùng nó, nhưng mấy ai có được khả năng thiên phú như con để có thể nhìn thấy một cách rõ ràng vầng khí huyền bí. Sau này, ta sẽ giải thích cho con chi tiết về sự vận hành của máy, nhưng hãy hiểu rằng đây là một nguyên lý thuộc bộ hòa tần, nơi những lǎng kính màu, trong khi quay nhanh làm gián đoạn tuyến thị giác và như thế phá huỷ hình ảnh bình thường của cơ thể con người, và tǎng cường những tia sáng yếu hơn vầng khí huyền bí nhiều.
Thầy Linh hướng đậy cái nắp lại và quay sang một cái máy khác, đặt trên một cái bàn, nơi một góc phòng. Ngài đến gần cái bàn đó khi Lạt ma Chinrobnobo vào phòng và đến bên chúng tôi.
Lạt ma Chinrobnobo nói với thầy Linh hướng:
-À! Chư tôn sắp kiểm tra khả năng ngoại cảm của cậu này? Tôi phải xem mới được!
Chỉ vào một cái ống hình trụ kỳ lạ có vẻ được làm bằng giấy thô, thầy Linh hướng nói với tôi:
-Này Lobsang, cái này là một thứ giấy dày, thô. Người ta đã đục thủng vô số lỗ ở đây, và những cái miệng lỗ đã làm giấy nhô ra. Sau đó, các Lạt ma chúng ta đã gấp tờ giấy này sao cho những cái miệng đó nằm ở ngoài, và tờ giấy được cuộn tròn thành một ống hình trụ. Ống này được đặt trên đầu nhọn của một cái kim dính với một cái bệ nhỏ. Như vậy, cái ống hình trụ được đặt trên một cái bệ mà nó không phải chịu cùng một sự ma sát nào. Giờ đây, hãy nhìn xem!
Thầy Linh hướng ngồi xuống và đặt hai tay ở hai bên ống hình trụ, không chạm đến, nhưng cách nó từ hai đến ba centimet, các ngón tay giương thẳng. Chẳng bao lâu sau, cái ống bắt đầu quay và tôi kinh ngạc khi thấy nó càng lúc càng quay nhanh hơn. Thầy Linh hướng đưa tay dừng nó lại. Sau đó, ngài đặt hai bàn tay theo hướng ngược lại, để cho các ngón tay của ngài – thay vì chìa ra ngoài như trước – giờ đây hướng vào thân của ngài. Vậy là cái ống hình trụ lại quay, nhưng theo chiều ngược lại!
Tôi nói:
-Ngài đang thổi vào cái ống!
Lạt ma Chinrobnobo đáp:
-Đó là điều mọi người đều nói, nhưng họ đã lầm.
Ngài đi về một hốc được xây trong tường ở cuối phòng, và mang đến một tấm kính rất dày, và cẩn thận trao cho thầy Linh hướng. Thầy Linh hướng đưa tay dừng cái ống đang quay và ngồi xuống trong khi Lạt ma Chinrobnobo đặt tấm kính giữa thầy Linh hướng và cái ống hình trụ.
Lạt ma Chinrobnobo nói:
-Hãy quyết liệt nghĩ đến chuyển động quay.
Đó hẳn là điều thầy Linh hướng đang thực hiện, bởi cái ống hình trụ bắt đầu quay. Tấm kính ngǎn không cho thầy Linh hướng hoặc bất cứ ai truyền cho cái ống một chuyển động quay bằng cách thổi vào nó.
Thầy Linh hướng lại dừng cái ống, và quay sang tôi, ngài nói:
-Bây giờ, đến lượt con!
Ngài rời khỏi ghế, và tôi ngồi vào chỗ ngài.
Tôi đặt hai bàn tay theo như thầy Linh hướng đã làm. Lạt ma Chinrobnobo giữ tấm kính ở phía trước tôi để hơi thở của tôi không thể tác động đến sự quay của ống hình trụ. Tôi cảm thấy mình lố bịch, bởi chẳng có gì xảy ra. Cái ống hình trụ vẫn đứng yên.
Thầy Linh hướng nói:
-Lobsang à! Hãy nghĩ đến việc làm cho nó quay!
Tôi tuân theo, và ngay tức khắc, cái ống bắt đầu quay. Tôi muốn bỏ chạy: tôi nghĩ rằng cái ống đang bị mê hoặc. Rồi lý trí (một chút mà tôi có) đã thắng và tôi vẫn ngồi yên, không bỏ chạy.
Thầy Linh hướng nói:
-Lobsang à, cái hệ thống này được chuyển động bởi lực của vầng khí huyền bí của con người. Con đã nghĩ đến việc làm cho nó quay, và vầng khí huyền bí của con đã chuyền cho nó một chuyển động quay. Có thể con sẽ muốn biết một cái máy như loại này có được đưa vào thử nghiệm tại các nước lớn trên thế giới hay không. Những nhà bác học uyên bác nhất đã tìm cách giải thích sự vận hành của nó, nhưng vì những người phương Tây không tin vào lực thanh khí, nên họ bịa ra những giải thích còn lạ lùng hơn cả lực thanh khí!
Đại Lạt ma y sĩ nói:
-Mingyar Dondup à, tôi rất đói bụng. Tôi cho rằng đã đến lúc chúng ta nên về phòng để nghỉ ngơi và ǎn uống. Chúng ta không nên lạm dụng những khả năng cũng như sức chịu đựng của cậu trai này, bởi sau này, những tư chất của cậu ấy sẽ phải chịu những thử thách cam go.
Chúng tôi rời phòng, nơi các ngọn đèn được tắt, và đi theo hành lang đá dẫn về khu nhà chính của Chakpori. Chẳng bao lâu sau, cùng với thầy Linh hướng, tôi bước vào một cǎn phòng. Tôi mừng rỡ trước bữa ǎn sẽ tái tạo sinh lực cho tôi.
Thầy Linh hướng nói với tôi:
-Ăn ngon miệng, Lobsang, bởi ta sẽ gặp con trong ngày để bàn với con về những vấn đề khác.
Sau bữa ǎn, tôi nghỉ ngơi trong phòng mình khoảng một hoặc hai tiếng, trong khi nhìn ra cửa sổ: sở thích của tôi là được nhìn từ nơi rất cao những sinh hoạt của trần gian này; tôi thích nhìn những thương lái chậm rãi ngang qua Cửa Tây, như một đám rước ngoằn ngoèo, mỗi bước chân của họ cho thấy họ mừng biết bao khi kết thúc một cuộc hành trình dài và gian nan qua những hẻm của vực núi. Một hôm, các thương lái đã cho tôi biết về toàn cảnh tuyệt đẹp mà người ta có thể chiêm ngưỡng từ một điểm của một đèo cao, nơi mà, khi đến từ biên giới Ấn, người ta có thể ngắm, qua một khe mở giữa những ngọn núi, Thành Cổ Thiêng, với những mái nhà lấp lánh của nó, và ở sườn các ngọn núi là những bức tường trắng của “Đống gạo”, một từ được chọn rất đúng bởi sự trắng xoá của nó lan tỏa tràn đầy trên những sườn núi, và toàn bộ khiến người ta nghĩ đến một đống gạo. Tôi thích nhìn người đưa đò ngang qua sông Phúc Giang.
Một lát sau, tôi lại có mặt trong cǎn phòng rộng lớn đó, cùng với thầy Linh hướng và Lạt ma y sĩ Chinrobnobo. Lạt ma y sĩ nói với tôi:
-Này Lobsang! Hãy luôn nhớ rằng, nếu con muốn khám phá một người bệnh và làm thuyên giảm cơn đau của họ, thì người bệnh – dẫu nam hay nữ – phải cởi bỏ hết quần áo.
Đỏ mặt, tôi đáp:
-Thưa Lạt ma khả kính, con thấy chẳng có lý do gì để buộc ai đó phai cởi bỏ quần áo trong cái không khí lạnh giá khắc nghiệt này, bởi con có thể thấy rõ vầng khí huyền bí của một người có mặc quần áo. Ồ! Thưa Lạt ma khả kính, làm sao con có thể yêu cầu một phụ nữ cởi bỏ quần áo cơ chứ?
Cái ý nghĩ đó khiến tôi tròn xoe mắt vì khiếp đảm. Hẳn bộ mặt tôi trông rất hài, bởi cả thầy Linh hướng, lẫn Lạt ma y sĩ đều bật cười. Ca hai phai ngồi xuống để phá lên cười. Còn tôi, đứng trước mặt họ, tôi cảm thấy mình hoàn toàn lố bịch, nhưng tôi cũng rất thắc mắc, bởi tôi có thể thấy rõ vầng khí huyền bí – không chút khó khǎn – và tôi không hiểu vì lý do gì tôi phải thực hiện theo một cách khác.
Lạt ma y sĩ nói:
-Lobsang à! Con là một nhà thấu thị rất có tài, nhưng có một số điều con không thể trông thấy. Con đã cho chúng ta thấy một trong những khả năng nổi trội của con liên quan đến vầng khí huyền bí, nhưng hẳn con đã không thể chuẩn đoán chứng ung thư gan nơi Lạt ma người Ấn nếu ngài ấy không cởi hết quần áo.
Tôi suy nghĩ về những lời đó và phai thầm nhìn nhận rằng ngài có lý. Tôi đã nhìn Lạt ma người Ấn khi ngài ấy đang mặc cà sa, và tôi phát hiện ra nhiều điều về tính tình và thái độ của ngài, nhưng tôi không nhận ra chứng bệnh của ngài.
Tôi gật đầu:
-Thưa Lạt ma y sĩ khả kính, ngài hoàn toàn có lý. Con mong được ngài hướng dẫn nhiều hơn trong lĩnh vực này.
Thầy Linh hướng nói với tôi:
-Khi nhìn vầng khí huyền bí của một người, thì con chỉ muốn thấy vầng khí huyền bí đó, con không quan tâm đến những ý tưởng của con cừu mà len của nó đã được dệt thành áo. Vầng khí huyền bí luôn bị ảnh hưởng bởi người đang giao thoa với nó bằng tia trực tiếp của họ. Ở đây, chúng ta có một tấm kính; nếu ta thổi lên nó thì làn hơi của ta ảnh hưởng đến điều con thấy qua tấm kính này. Mặt khác, tuy đây là một tấm kính trong suốt, nó làm thay đổi ánh sáng, hay đúng hơn là màu sắc của ánh sáng mà con sẽ thấy khi nhìn qua tấm kính. Cũng vậy, nếu con nhìn qua một tấm kính màu, cường độ của tất cả những dao động mà con nhận được từ một vật sẽ bị biến đổi bởi tác động của tấm kính màu. Do vậy, vầng khí huyền bí của một người đang mặc quần áo bị biến đổi tùy theo lượng thanh khí có trong quần áo hoặc trang sức.
Tôi suy nghĩ về những lời đó và nhìn nhận rằng chúng chứa đựng một phần lớn sự thật.
Thầy Linh hướng nói tiếp:
-Ngoài ra: mỗi cơ quan của cơ thể phóng chiếu hình ảnh của nó – tình trạng khỏe mạnh hoặc bệnh tật của nó – trong thanh khí, và trong vầng khí vô hình khi nó được loại bỏ khỏi ảnh hưởng của quần áo, sẽ làm rǎng thêm cái ấn tượng mà ta nhận được. Rõ ràng là nếu con muốn giúp đỡ một người khỏe mạnh hoặc bệnh tật, con phải xem xét người đó trong tình trạng họ hoàn toàn trần truồng. (Ngài mỉm cười và nói tiếp) Và, nếu trời lạnh, thì con phải đưa người bệnh tật đến một nơi ấm hơn.
-Thưa Lạt ma khả kính, cách nay không lâu, ngài có nói với con rằng ngài đang nghiên cứu một cái máy sẽ giúp ngài chữa lành bệnh nhờ vầng khí huyền bí.
Thầy Linh hướng gật đầu:
-Đúng vậy, Lobsang. Bệnh tật chỉ là một sự lủng củng, thiếu hài hòa trong sự dao động của cơ thể. Khi nhịp điệu của những dao động tế bào của một cơ quan cơ thể bị rối loạn, cơ quan đó được xem là bị bệnh. Nếu ta có thể thấy ở mức độ nào những dao động của một cơ quan của cơ thể đang bị tách rời khỏi mức bình thường, thì ta có thể chữa lành cơ quan đó bằng cách tái lập nhịp dao động của nó theo đúng như nó nguyên trạng. Trong trường hợp một bệnh nhân tâm thần, thì não nhận thông điệp từ Siêu Ngã, nhưng nó không thể hiểu nghĩa một cách chính xác, và thái độ của nó biểu hiện ra khác hẳn với thái độ của người được xem là bình thường. Như vậy, nếu một người không thể lý luận hoặc hành động một cách bình thường, thì người đó bị cho là mắc bệnh tâm thần. Khi đo lường sự chệch hướng – sự kích thích không đầy đủ – chúng ta có thể giúp người bệnh tái lập sự cân bằng. Những dao động có thể thấp hơn mức bình thường, điều đó đưa đến một sự “kém kích thích”, hoặc bị kích thích ở mức cao, do đó người bệnh bị mất trí. Một điều không thể phủ nhận là nhờ vào vầng khí huyền bí, ta có thể trị bệnh.
Lạt ma y sĩ ngắt lời thầy Linh hướng.
-Thưa tôn chủ, Lạt ma Marfata đã bàn với tôi về vấn đề đó, và ngài ấy đã nói rằng ở một số nơi tại Ấn Độ – một số tu viện Lạt ma hẻo lánh – các Lạt ma sử dụng một máy có điện áp rất cao, được gọi là … Máy phát điện Graaf. Máy đó phát ra một dòng điện áp cực kỳ cao với cường độ cực kỳ thấp. Khi được ứng dụng vào cơ thể con người theo một cách nhất định, nó sẽ làm gia tǎng đáng kể cường độ của vầng khí huyền bí, đến nỗi người không có khả năng thấu thị cũng có thể nhìn thấy rõ nó. Tôi được biết rằng, trong những điều kiện đó, người ta có thể chụp ảnh vầng khí huyền bí.
Gật đầu, thầy Linh hướng nói:
-Vâng, người ta cũng có thể nhìn thấy vầng khí huyền bí của con người nhờ vào một thứ thuốc nhuộm đặc biệt, một chất lỏng mà người ta đưa vào giữa hai tấm kính. Bằng cách chọn một hệ thống chiếu sáng và một hậu cảnh thích hợp, và trong khi nhìn một thân thể con người trần truồng, qua những tấm kính đó, thì nhiều người có thể trông thấy vầng khí huyền bí.
Không dằn được, tôi nói xen vào:
-Nhưng, thưa ngài, tại sao người ta phải cần dùng đến những thứ đó? Tại sao người ta không thể nhìn thấy vầng khí huyền bí theo cách của con?
Cả hai Lạt ma bật cười. Lần này, họ thấy không cần phải giải thích sự khác biệt của sự rèn luyện mà tôi đã trải qua với sự không được chỉ dẫn của một người bình thường.
Lạt ma y sĩ nói tiếp:
-Vào lúc này, chúng ta đang dò dẫm trong bóng tối. Chúng ta tìm cách chữa trị những người bệnh bằng các phương pháp gia truyền, dựa vào kinh nghiệm, bằng cách sử dụng các thảo dược, thuốc viên, thuốc nước. Chúng ta chẳng khác gì những người mù đang cố tìm kiếm cây kim rơi xuống đất. Ta mong rằng sẽ có một cái máy nhỏ, được thiết kế sao cho, nhờ nó, một người không có khả năng thấu thị có thể nhìn thấy vầng khí huyền bí, nhận mọi lỗ khuyết bất bình thường của nó, và như thế có thể chữa trị sự thiếu hài hòa hoặc khiếm khuyết, vốn thực sự là nguồn gốc của bệnh tật.
Những ngày còn lại trong tuần này, thầy Linh hướng và Lạt ma y sĩ truyền thụ cho tôi qua thần giao cách cảm và thuật thôi miên; những khả năng của tôi được tǎng cường, và chúng tôi bàn luận rất lâu với nhau về những cách thức tối ưu để nhìn thấy vầng khí huyền bí, và thiết kế một cái máy giúp nhìn thấy vầng khí đó. Rồi, vào đêm cuối của tuần đó, tôi quay về cǎn phòng nhỏ của tôi tại tu viện Lạt ma Chakpori. Tôi nhìn ra cửa sổ và nghĩ rằng, ngày mai tôi sẽ trở về nhà ngủ lớn, nơi tôi sẽ ngủ cạnh nhiều tu sinh khác.
Thung lũng lấp lánh những ánh đèn. Những tia nắng cuối của một ngày tràn ngập phần lởm chởm đá chung quanh thung lũng và đang ve vuốt những mái nhà vàng óng, như những ngón tay rực lửa tuôn xuống những cơn mưa ánh sáng. Những màu xanh, vàng, đỏ và lục thu hút mắt nhìn và chúng càng lúc càng mờ nhạt đi. Chẳng mấy chốc, thung lũng có vẻ như được xếp vào trong những lớp nhung màu tím xanh – đen hầu như có thể sờ được. Qua cửa sổ, tôi có thể ngửi thấy hương của những cây liễu và những cây cỏ trong vườn, ở phía dưới, và một cơn gió thoảng mang đến cho khứu giác của tôi mùi hương nồng hơn của phấn hoa và những nụ hoa đang hé nở.
Mặt trời đã khuất hẳn, không còn ve vuốt cái rìa lởm chởm đá của thung lũng, và những ngón tay rực sáng của nó giương thẳng lên nền trời đã tối sầm, phản chiếu màu xanh, đỏ trên những đám mây thấp. Dần dần, đêm phủ xuống khi mặt trời càng lúc càng lún sâu hơn phía sau chân trời. Chẳng bao lâu sau, những điểm sáng mọc lên trên bầu trời tím, đốm sáng của sao Thổ, sao Kim, và sao Hỏa. Cuối cùng là sự xuất hiện của mặt trǎng với cái mặt rỗ hoa của nó. Một đám mây nhỏ như len ngang qua nó, khiến tôi nghĩ đến một phụ nữ đang kéo chiếc áo về để che thân sau khi được chuẩn đoán qua vầng khí huyền bí. Tôi quay mặt đi và quyết tâm làm tất cả những gì có thể để góp phần đạt được tiến bộ trong sự hiểu biết về vầng khí huyền bí của con người, nhằm làm vơi đi những đau khổ của hàng triệu người. Tôi nằm dài trên sàn đá và nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.