Dịch giả: Trung tâm VMC
CHƯƠNG 6
Xe buýt lǎn bánh dọc con đường trên bến cảng, ngang qua cây cầu xe điện cũ, tǎng tốc và nhanh chóng bỏ lại Lâu đài Howth sau lưng. Tất cả chúng tôi đều im lặng, Thầy đã mệt mỏi rã rời, ngắm nhìn vùng đất yêu dấu mà lưu luyến chẳng muốn rời. “Giá như mấy tay ở Sở thuế không tàn nhẫn như vậy!” tôi thầm nghĩ. Chúng tôi ngồi bên cạnh Thầy, im lặng cảm thông. Tại Sutton, cả nhà đều quay sang nhìn bên trái để âm thầm từ biệt một người bạn cũ khác, Bác sĩ Chapman. Tiếp tục, tiến về phía Dublin, mùi rong biển thổi vào từ cửa sông Liffey trong khi đám mòng biển kêu những câu từ biệt buồn bã trên đầu.
Cô Ku ngồi đằng sau trên kệ hành lý, từ đó có thể nhìn ra ngoài. “Nghe cho kỹ này, Feef” cô gọi tôi – đang ngồi kế bên Thầy.
“Tôi sẽ kể cho nghe những thứ cậu chưa từng được thấy. Đây là Clontarf, và chúng ta vừa đi ngang qua các khu vườn”.
Chẳng ai trò chuyện trên xe buýt, không ai ngoại trừ cô Ku. Tôi đã có sáu tháng Thiên đường ở Ireland, sáu tháng để nhận ra tôi được yêu thương, và tôi cũng có nơi “thuộc về”. Bây giờ chúng tôi đang rời đi, liệu điều gì đang chờ trước mắt? Xe buýt lǎn bánh đều đều mà không bị giật hay dừng gấp, vì người Ireland rất lịch sự và luôn coi trọng hành khách trên xe.
Bây giờ giao thông trở nên đông đúc hơn. Có vài lúc chúng tôi dừng lại, khi đèn tín hiệu chuyển màu đỏ.
Đột nhiên cô Ku nói: “Chúng ta đang ngang qua Đại học Trinity, Feef, hãy tạm biệt nó đi”. Đại học Trinity! Ngay đối diện là Công ty Lữ hành đã sắp xếp mọi thủ tục. Tôi thầm ước mình có thể bước vào đó và hủy bỏ ca chuyến đi này. Thầy đưa tay xuống xoa cằm tôi và kéo tôi lại gần. Dòng xe cộ thưa dần khi chúng tôi đến ngoại ô. Người lái xe tǎng tốc.
“Chúng ta đang đến Limerick, Feef”, Cô Ku nói,“Để tôi kể cho cậu điều này: Có một con mèo ở vùng Kildare cài hoa catnip trên đầu…”.
“Trật tự nào, Ku!”, Thầy bảo, “ai có thể nghĩ ngợi được khi con cứ ngồi đó ba hoa chứ”.
Trong một chốc tất cả đều im lặng, nhưng Cô Ku không bao giờ giữ im lặng được quá lâu. Ngồi dậy, cô lại xa một tràng liên tục về tất cả những gì đáng quan tâm và nghĩ rằng tôi nên biết. Tôi đã già và đã từng có một cuộc sống khó khǎn. Bị mù khiến mọi việc cũng chẳng dễ dàng. Cuộc hành trình làm tôi mệt, thế nên tôi đã đánh một giấc.
Đột nhiên, tôi cảm nhận được một chuyển động khác lạ và nhanh chóng ngồi bật dậy. Chúng ta đã đến rồi sao? Tôi đã ngủ bao lâu? Chuyện gì đang xảy ra? Chiếc xe buýt đã dừng hẳn rồi.
“Không sao đâu, Feef,” Thầy nói, “Chúng ta vừa dừng lại để uống trà”.
“Được nửa đường đến Shannon rồi”, Người tài xế nói, “tôi luôn dừng lại ở đây vì họ có trà ngon lắm”.
“Hai người vào đi”, Thầy bảo, “tôi và mấy con mèo sẽ ở lại”.
“Được thôi”, Mẹ trả lời, “tôi sẽ mang trà của ông ra. Ku’ei và Fifi có thể uống trà của chúng cùng lúc”.
Mẹ và Kẹo Bơ rời xe buýt, tôi có thể nghe tiếng họ bước đi. Một tiếng “cạch” mở cửa, và họ đang ở trong một cửa hàng. “tên là Chợ Phố”, Cô Ku nói, “Có rất nhiều ô tô đậu. Một nơi nhỏ xinh. Mọi người đều trông thân thiện. Có một bà lão đang cười với cậu kìa, Feef, hãy cười đáp lại bà ấy đi.”
“Cậu ấy bị mù”, cô Ku hét lớn với bà lão, “cậu ấy không thể nhìn thấy bà, hãy nói chuyện với cháu này!”.
“À, chắc chắn rồi” bà lão nói, áp sát mặt vào cửa sổ, “mấy con vật này dễ thương quá. Đứa nhỏ này đang nói chuyện với ta kìa. Thời buổi này có những thứ thật tuyệt vời”.
“Thôi nào, Mẹ! Mẹ phải đi lấy trà cho Bố kẻo ông ấy đi biến đến O’Shaughnesseys bây giờ”.
“À, con nói đúng, ta phải đi đây”, bà lão nói rồi bước đi.
“Tôi thích chiếc khǎn choàng của bà ấy”, Cô Ku bao, “Tôi có thể dùng nó làm khǎn trải giường”.
Mẹ trở lại mang theo thức ǎn và đồ uống cho Thầy. Bà ấy cũng mang trà cho chúng tôi, nhưng chúng tôi còn quá hào hứng để ǎn uống.
“Thầy ǎn gì thế, thưa thầy?” tôi hỏi.
“Bánh mì, bơ và một chén trà”, ông trả lời.
Tôi cảm thấy dễ chịu hơn khi biết rằng ông đang ǎn dù chỉ một chút, vì vậy tôi yên tâm nhấm nháp tách trà của mình, nhưng làm sao một con mèo có thể ǎn khi nó còn đang quá phấn khích kia chứ?
Tôi nghĩ về những chuyến đi mà mình đã từng trải qua trước đây, xóc nay trong một chiếc ô tô chạy nhanh, bị đánh thuốc mê và suýt chết ngạt trong một chiếc hộp gỗ gần như không có không khí. GIỜ ĐÂY tôi sẽ đi trên khoang hạng nhất và không bị tách khỏi Gia đình mình. Tôi ngồi xuống bên cạnh Thầy, gừ gừ một chút.
“Feef già đang tận hưởng đây”,Thầy nói với Mẹ, “Tôi nghĩ nó rất thích mặc dù không chịu thừa nhận!”.
“Khen con nữa đi!” Cô Ku hét lên từ phía sau xe, nơi cô ấy đang giữ hành lý và chỉ đạo Tài xế.
“Tôi không biết chúng ta sẽ xoay sở thế nào nếu không có Ku’ei chǎm sóc và điều hành mọi thứ”, Thầy vừa nói vừa véo tai tôi.
“Cô Ku gây náo động hơn hết thảy những con Mèo của vùng Kilkenny”, ông nói thêm.
Chiếc xe buýt tiếp tục vi vu, bỏ lại sau lưng nhiều dặm đường, đưa chúng tôi xa khỏi tất cả những gì mình yêu thương và thân thuộc, để đến một nơi không hay biết? Chúng tôi rời Hạt Tipperay, tiến vào Hạt Limerick. Bóng tối đã bao trùm, nên chúng tôi phải đi chậm hơn. Cuộc hành trình thật dài quá dài, tôi tự hỏi làm sao Thầy chịu được. Cô Ku bao ông ấy trông mỗi lúc một xanh xao khi đi qua quá nhiều dặm đường như vậy. Thời gian chẳng còn ý nghĩa gì nữa, giờ và phút trôi qua như thể chúng tôi đang sống trong chốn vô cùng vậy. Tiếng vi vu của xe buýt, tiếng lốp quay vòng, những dặm đường tiếp nối chạy qua bên dưới chúng tôi rồi trôi dạt vào chốn hư không đằng sau. Thậm chí Cô Ku cũng đã rơi vào im lặng. Giờ đây không ai trò chuyện ca, chỉ có tiếng xe lǎn bánh và các tiếng động của màn đêm. Thời gian như ngừng chay khi những dặm đường tiếp nối trôi vào đêm đen bí ẩn.
Cô Ku bật dậy, chuyển từ trạng thái mơ ngủ sang cực kỳ tỉnh táo chỉ trong tích tắc.
“Feef!” cô gọi, “cậu đã dậy chưa?”.
“Vâng, Cô Ku,” tôi trả lời. “Những vệt sáng đang quét qua bầu trời, phủi sạch những đám mây để dọn đường cho máy bay” cô thốt lên. “Chúng ta chắc hẳn đang ở gần Shannon, gần đến rồi”.
Xe buýt tiếp tục lao đi, nhưng lúc này bầu không khí tràn ngập sự ngóng chờ, cả nhà cùng ngồi dậy để xem.
Người lái xe nói: “Nǎm phút nữa thôi. Ông bà có muốn vào lối cổng chính không? Chuyến bay của ông bà là tối nay phải không?”.
“Thưa không”, Mẹ nói, “Chúng tôi sẽ nghỉ ở đây tối nay và cả ngày mai, sẽ đi New York vào tối mai”.
“Vậy thì ông bà sẽ cần chỗ ở”, Người lái xe nói, “khách sạn này ổn lắm đấy”. Anh ta lái xe thêm một quãng nữa, rồi rẽ và đi khoang nửa dặm trên đường Sân bay trước khi dừng lại ở một tòa nhà bên tay phai. Anh bước ra ngoài rồi đi vào Vǎn phòng.
“Không phải rồi!” Anh nói khi quay trở ra xe buýt, “chỗ này không đúng rồi, chúng ta phải đến một chỗ gần cổng vào, tôi biết nơi đó”.
Có lẽ đi một phần tư dặm nữa, rồi chúng tôi đến được một tòa nhà khác. Người lái xe kiểm tra và thấy rằng cuối cùng chúng tôi đã đến được đúng nơi. Hành lý được mang vào là những thứ gia đình cần dùng qua đêm, còn những thứ nặng hơn được đưa thẳng đến Sân bay.
“Tôi cần dùng Phòng vệ sinh Nữ!”, Cô Ku la lớn.
“Vậy thì đây”, Mẹ nói, chỉ cái HỘP THIẾC đã đặt sẵn trong phòng tắm.
Bà nhẹ nhàng nâng tôi lên, mang vào phòng tắm rồi để tôi cảm nhận chiếc hộp thiếc của mình. Nhưng thường lệ, Gia đình mỗi người một phòng. Tôi ngủ với Thầy, Cô Ku ngủ với Mẹ, còn Kẹo Bơ tội nghiệp phai ngủ một mình. Cô Ku và tôi chǎm chỉ nghiên cứu nơi này để đảm bảo rằng chúng tôi đã thông suốt mọi lối thoát, cũng như vị trí chính xác của mọi vật dụng cần thiết. Xong xuôi chúng tôi ǎn tối.
Chẳng con mèo nào có thể nghỉ ngơi cho tới khi nó đã có cơ hội khám phá toàn bộ cǎn phòng. Loài mèo LUÔN phải biết được vị trí chính xác của mọi thứ. Thị lực của chúng tôi cũng rất khác so với con người và phần lớn thời gian chúng tôi nhìn sự vật ở không gian hai chiều thay vì ba chiều. Chúng tôi có thể đứng bất động đến mức khiến con người hoang mang; cũng có thể điều chỉnh mắt để phóng đại một vật như cách người ta dùng ống nhòm để làm. Ngoài ra còn có thể thay đổi thị lực để có thể nhìn rõ từ khoảng cách xa, cũng như những thứ ở ngay trước mũi. Màu đỏ nằm ngoài khoảng nhìn được của mèo, đúng ra nó trông như màu bạc. Ánh sáng xanh đối với mèo cũng chỉ giống như nắng mặt trời. Dấu tích dù mờ nhất, côn trùng dù nhỏ nhất, cũng hiển hiện với loài mèo. Con người không hiểu được cặp mắt của mèo, chúng là công cụ tuyệt vời cho phép mèo thấy được cả tia hồng ngoại. Ngoại trừ mắt của tôi, tất nhiên, vì tôi bị mù. Cặp mắt của tôi, theo như người ta nói, trông hoàn toàn bình thường, chúng mang một màu xanh cuốn hút và to sáng, mỗi tội chúng chẳng nhìn thấy gì ca.
Cả nhà đều ngủ ngon đêm đó, chẳng bị làm phiền bởi tiếng máy bay đáp rồi lại cất cánh tới bờ biển bên kia. Sáng hôm sau Mẹ và Kẹo Bơ ra ngoài mang đồ ǎn sáng về. Chúng tôi lười biếng nằm ườn, Cô Ku ngồi bên cửa sổ chiêm ngưỡng váy áo của những người phụ nữ ra vào Sân bay. Thầy thì mặc quần áo chỉnh tề, dẫn chúng tôi ra chơi ở bãi cỏ bên ngoài tòa nhà. Tôi luôn phai đảm bảo rằng mình ở trong tầm với của ông. Tôi sẽ không liều mình đi lạc vào lúc này đâu.
“Feef”, Cô Ku nói, “đây là sân bay mà cậu bay đến từ Pháp phải không?”
“Vâng, Cô Ku”, tôi trả lời, “nhưng tôi vào bằng cổng hành lý và chưa bao giờ có trải nghiệm vui vẻ như bây giờ. Từ chỗ này chúng tôi đã bay đi Dublin, nhưng dĩ nhiên là lúc đó tôi bất tỉnh”.
“Được rồi, Bà Cô Già”, Cô Ku nói, “Tôi sẽ để mắt để đảm bảo cậu Ổn cả. Tôi rất lão luyện trong việc đó”.
“Cảm ơn nhé, Cô Ku”, tôi trả lời, “tôi rất biết ơn sự hướng dẫn của cô”.
Giờ ǎn trưa đến, Mẹ gọi chúng tôi vào vì tất cả phải ăn để còn lấy sức. Ăn xong, cả nhà đi nghỉ, cô Ku với Mẹ, Kẹo Bơ một mình, Thầy với tôi. Chúng tôi nghỉ ngơi thật nhiều vì chưa chắc đã ngủ được trên máy bay.
Tôi bị đánh thức khi Thầy vuốt ve và nói: “Feef, thứ mèo già ngái ngủ, con và Ku’ei chạy vòng quanh để lát nữa ǎn uống cho ngon nhé”.
“Đi nào, Feef!” Cô Ku gọi, “Chúng ta chưa khám phá hành lang, đang không có ai ngoài đó ca, ĐI THÔI!”
Tôi nhảy khỏi giường, gãi tai một lúc nghĩ xem nên đi đường nào, thì thấy bàn tay của Thầy dẫn đến cánh cửa đang mở. Cô Ku dẫn đường, và chúng tôi thực hiện cuộc khám phá khoa học về hành lang, đồng thời phân tích những người đã đi qua đó.
Cô Ku nói: “Hãy đi ra chỗ Lễ tân, chúng ta có thể khoe khoang ở đó”.
Nhiều người chưa nhìn thấy Mèo Xiêm bao giờ, và tôi phải thừa nhận một cách thiếu khiêm tốn rằng chúng tôi khiến người ta trầm trồ. Tôi cảm thấy được tâng bốc khi mọi người nghĩ rằng tôi là mẹ Cô Ku! Thế là chúng tôi lượn lờ ở Lễ tân mấy vòng rồi trở về phòng ngủ tiếp.
Đèn khắp Sân bay sáng nhấp nháy khi chúng tôi dậy ǎn tối. Bóng tối chập choạng giờ đã đặc quánh lại và chuyển thành đêm. Cả nhà chầm chậm thu dọn đồ, rồi bước ra ngoài màn đêm Ai-len ấm áp, tiến về Sân bay bên kia đường. Vài người đàn ông lấy hành lý của chúng tôi để sẵn cho Hai quan kiểm tra. Thầy luôn dành những lời lẽ tốt đẹp nhất cho Hai quan Ai-len, chưa bao giờ có rắc rối gì với họ. Vấn đề duy nhất mà chúng tôi có với quan chức Ai-len là với mấy tay ở Sở Thuế, sự tham lam của họ đã khiến chúng tôi phải rời đi.
Một nhân viên hãng hàng không Thụy Sĩ lịch thiệp đến chào gia đình và có vài lời với Cô Ku và tôi.
“Công ty chúng tôi muốn mời ông bà ǎn tối như khách của chúng tôi”, ông ta nói rất lịch sự.
“Không, cảm ơn”, Thầy trả lời, “chúng tôi đã ǎn tối rồi, và chúng tôi sẽ không rời mấy con mèo dù chỉ là một khoảnh khắc”.
Người đàn ông hỏi có thể hỗ trợ gì không, rồi đi, để lại chúng tôi một mình. Mẹ nói: “Chúng ta có nên cho mèo uống thuốc an thần bây giờ không?”.
“Chưa đâu”, Thầy bảo, “ tôi sẽ không cho Feef uống đâu, nó luôn yên lặng mà. Chúng ta sẽ xem Ku như thế nào khi lên máy bay”.
Bởi bị mù, tôi cảm thấy khá bất lực khi cố diễn ta những sự việc xảy ra tiếp theo. Sau khi nǎn nỉ rất nhiều thì Cô Ku, bất chấp vô vàn khó khǎn về phía mình, đã đồng ý viết tiếp những trang sau đây….
Chà, giờ chúng tôi đã ở đó, ngồi như mọi người trong sảnh chính ở Sân bay Shannon. Đám đông ở đó mất trật tự như một lũ gà mái tơ. Trẻ con la hét tức tối, khiến tôi muốn đinh tai nhức óc vì tiếng ồn. Một vài anh chàng Yankee đang ngồi trong một góc trông như một đống vịt nhồi bông. Họ nghĩ họ là cái gì GHÊ GỚM lắm vì họ có những chiếc túi được dán nhãn đi Paris – quê của Bà cô Mèo. Đồng hồ sân bay có vẻ đã bị gỉ, vì thời gian trôi rất chậm. Cuối cùng, vài anh chàng mặc đồng phục màu xanh lam và màu đồng tiếp cận chúng tôi, nói rằng Chuyến bay của hãng hàng không Thụy Sĩ từ Shannon đến Sân bay Quốc tế New York đã sẵn sàng. Tôi nghĩ điều này thật ngớ ngẩn, bởi vì làm sao chuyến bay đã sẵn sàng khi mà máy bay vẫn còn ở trên mặt đất được chứ. Anh ta toan xách giỏ của tôi, nhưng Thầy và Mẹ từ chối. Thầy xách giỏ của Bà cô Mèo và Mẹ xách cái của tôi. Còn Kẹo Bơ thì- chỉ có Chúa mới biết cô ấy cầm thứ gì, lúc ấy tôi quá bận đến mức không kịp nhìn. Chúng tôi lên đường, giống như một đoàn học sinh đến Nhà thờ vào ngày Chủ nhật, đi ngang hết sảnh chính vào bóng tối mà chẳng tối. Lẽ ra là thế, nhưng mọi ánh đèn ở Shannon dường như đều được bật sáng. Trên đường bǎng có đủ loại đèn màu. Những ngọn đèn khác chiếu như những ngón tay trên bầu trời. Sau đó tôi nhìn về phía trước và thấy chiếc máy bay. Trời ơi! Nó mới to làm sao, to hơn bất cứ thứ gì chúng tôi đã thấy ở sân bay Dublin. Đối với tôi, nó to gần bằng cả làng Howth được kéo trên bánh xe. Chúng tôi đi tới, càng lúc càng gần chiếc máy bay, và dường như nó lại càng lớn hơn. Ở đầu phía trước có một cái thang với hai bên thành để đàn ông trên mặt đất không thể nhìn thấy những gì loài mèo chúng tôi luôn có thể thấy. Ý tôi là phụ nữ ấy.
Ông Già bế Bà Mèo leo từ từ lên cái thang hay cầu hay bất cứ cái gì người ta gọi nó. Một Người Quan Lý to béo (trời, tôi cá rằng ông ấy ǎn rất nhiều!) cúi người thấp đến nỗi ông gần như cắm mặt xuống đất. Một Cô Tiếp viên thậm chí còn to béo hơn, mặc bộ quần áo màu xanh dương cổ trắng cũng chào chúng tôi. Cô ấy không cúi người, vì áo nịt khiến cô không thể làm vậy. Tất cả các nữ Tiếp viên đều mặc áo nịt, tôi biết điều này từ một cuốn sách Thầy viết cách đây ít lâu. Dù sao, họ cũng để chúng tôi yên vị trong khoang Hạng Nhất, rồi mới đón các hành khách phổ thông lên máy bay. Họ gây ồn ào kinh khủng.
Một cái đèn bật sáng, bao rằng chúng tôi không được hút thuốc (đã ai từng nghe nói đến việc mèo hút thuốc bao giờ chưa?) và phải thắt dây an toàn. Chúng tôi làm theo. Thầy giữ chặt chiếc giỏ của ông như thể nó là thứ gì quý giá lắm. Mẹ cũng ôm lấy cái giỏ của tôi, bởi vì tôi chắc chắn là quý giá rồi. Một cánh cửa lớn bằng kim loại đóng sầm lại và cả máy bay rung chuyển như thể nó sắp rơi ra thành từng manh. Tuy nhiên, nó đã không vỡ mà từ từ di chuyển qua rất nhiều đèn chiếu. Đám người phía bên ngoài vẫy tay chào. Chúng tôi thấy miệng họ mở ra khi họ kêu lớn. Họ trông giống như những con cá mà chúng tôi đã nuôi trong bể ngày trước. Máy bay tiếp tục tiến lên thì có một tiếng động kinh khủng, làm tôi tưởng nó đã lái gần đến Mỹ, toàn bộ mọi thứ quay ngoắt, gần như đè nặng lên tai, và tiếng ồn tǎng lên. Tôi hét lớn yêu cầu Phi công dừng nó lại, nhưng anh ta không thể nghe thấy gì vì tiếng ồn mà chính anh ta đang tạo ra. Có một cảm giác đột ngột tǎng tốc dữ dội, đột ngột đến mức nó gần như trộn bữa trưa với bữa tối của tôi lại với nhau, và sau đó thì chúng tôi ở trên không. Viên Phi công chắc hẳn còn thiếu kinh nghiệm, vì anh ta phải quay đầu máy bay rồi lượn một vòng quanh Sân bay để biết chắc chắn rằng đã cất cánh. Tôi nhìn thấy nhiều ánh sáng bên dưới, hàng trǎm ngọn, rồi thấy rất nhiều nước lấp lánh dưới ánh trǎng.
“Ê!” Tôi hét lên với anh ta, “Dưới đó là nước đấy, chúng ta sẽ chết đuối nếu rơi xuống!”.
Anh ta chắc đã nghe thấy tôi vì rồi anh ta quay máy bay lại và hướng về nước Mỹ.
Chúng tôi bay mỗi lúc một cao, xuyên qua những tầng mây rai rác nhuốm màu bạc của ánh trǎng, và cảo nữa cao nữa. Chúng tôi tǎng tốc trên không, tôi bất giác nhìn ra cửa sổ và thấy tia lửa bắn ra từ bên dưới cánh máy bay.
“Trời đất!”, tôi tự nhủ, “không chết chìm thì sẽ chết cháy mất thôi!”.
Tôi bèn cuống quít gọi Thầy và Thầy bảo rằng mọi thứ đều ô kê (tức là “ổn cả” trong tiếng Mỹ) vậy nên đừng lo lắng. Nhìn quanh thêm một lúc, tôi tự cảm thấy các ống trong động cơ đều nóng. Người Phi Công hẳn đã đọc được ý nghĩ ấy của tôi, bởi ông ấy nói xuống từ trên trần, bao rằng hành khách chớ lo lắng, khi máy bay tǎng độ cao thường có tia lửa như vậy.
Cô tiếp viên to béo đến chỗ chúng tôi, tôi không nghe được cô ấy nói gì vì mất tập trung bởi tiếng rǎng rắc mỗi khi cô cúi xuống.
“Quần áo của cô ta sẽ bung ra mất thôi”, tôi nghĩ.
Vài gã yankee ngớ ngẩn cũng đang ngồi ở khoang Hạng Nhất. Ngoài mấy gã mập này ra, thì không còn ai khác. Chúng tôi bay lên cao khoang ba mươi nghìn feet, tôi đoán là gần đến Thiên Đường rồi, thì máy bay ổn định độ cao và lướt dọc theo các vì sao.
“Tôi sẽ cho Ku một viên thuốc”, Mẹ nói, vừa nhét một thứ chất kỳ lạ vào miệng tôi trước khi tôi hay Ông Già kịp phản đối. Tôi chớp mắt và nuốt. Trong thoáng chốc không có gì xảy ra, một cách từ từ tôi cảm thấy có một cơn mê nhẹ chiếm lấy cơ thể. Tự dưng lại muốn hát mà không thể cưỡng lại được. Trời ơi! Tôi cảm thấy thật thǎng hoa! Mấy Người Già càng lúc càng nổi điên trong khi tôi càng lúc càng thấy vui hơn.
Lưu ý đặc biệt cho các fan hâm mộ mèo; sau này Ông Già được cho biết từ Sở thú Detroit rằng mèo không trở nên bình tĩnh hơn nhờ thuốc an thần. Mà trở nên SAY XỈN! Nhân viên Sở thú Detroit chia sẻ rằng ông đã từng có cùng trải nghiệm như Thầy khi một con mèo trở nên say xỉn. Chà, dù sao thì cũng thật vui. Giờ thì tôi đã hoàn thành phần của mình và sẽ nhường lại câu chuyện cho Bà Cô Già, suy cho cùng thì cậu ấy đã khởi đầu nó và nó là đứa con tinh thần của cậu ấy.
Chiếc máy bay vẫn vi vu hàng trǎm dặm mỗi giờ. Đèn mờ đi, và cuối cùng được thay thế bằng ánh sáng xanh nhạt. Cô Ku nằm trong giỏ, cười một mình. Cô ấy cười khúc khích từng chặp một. Cuối cùng không thể chịu được nữa, sự tò mò của tôi đã lấn át mọi phép tắc.
“Cô Ku”, tôi nói nhẹ nhàng để không làm phiền ai, “Cô Ku, cô đang cười gì vậy?”.
“Hở? Tôi đang cười á? À đúng rồi, HA! HA! HA!”.
Tôi tủm tỉm với chính mình, Cô Ku thực sự đang “bay” như người ta nói. Trước đây tôi đã có lần chứng kiến một con mèo trong trạng thái đó, một anh mèo đực hay mon men vào hầm rượu để liếm láp những giọt rượu rỉ ra. Bây giờ cô Ku cũng giống vậy.
“Feef!”, cô ấy cười khúc khích, “chuyện này thật quá vui để giữ cho riêng mình, Feef, cậu có đang nghe không đấy? Feef!”.
“Vâng, cô Ku”, tôi trả lời, “tôi đang nghe mà, tôi sẽ rất vui được nghe câu chuyện của cô”.
“Chà”, cô ấy bắt đầu, “chuyện xảy ra ngay trước khi cậu đến Howth. Cậu biết đấy, Thầy là một nhà sư Phật giáo, một vị Lạt ma. Một ngày nọ, ông ấy đang ngồi trên tang đá bên cạnh mép nước, thì một Cha xứ trẻ đang đi dạo cùng với ca hội của họ, đến ngồi xuống bên cạnh Thầy.
“Con trai ta”, người tu sĩ nói (trong khi Thầy đáng tuổi ông nội anh ta!). “Con trai ta, con đã không đi lễ hôm nay”.
“Không, thưa Cha”, Thầy lịch sự trả lời, “tôi đã không đi”.
“Hãy đi dự Lễ, con trai”, cha xứ trẻ nói” hứa với ta rằng con sẽ đi hôm nay!”. “Không, thưa Cha”, Thầy trả lời, “tôi không thể hứa điều ấy”.
“Vậy con không phải là một giáo dân tốt”, ông cha xứ trẻ giận dữ vặn lại. “Không, thưa Cha”, Thầy ôn tồn đáp, “Tôi là một nhà sư Phật giáo, đúng hơn là một Hòa thượng”.
Cô Ku ngừng lại một lúc rồi phá lên cười.
“Feef!”, cuối cùng cô nói, “Feef, cậu nên nhìn mặt tên cha xứ trẻ đó, anh ta thất thần như thể bị quỷ rượt vậy!”.
Mãi rồi cô Ku cũng cảm thấy mệt vì nói và cười quá nhiều nên thiếp đi. Tôi quay vào giỏ của mình, Thầy đưa tay xoa cằm tôi. Với một tiếng gừ gừ, tôi chìm vào giấc ngủ.
Thầy bị ốm khi tôi tỉnh giấc, người Quản lý đang cúi xuống cho ông uống thuốc. Thầy đã già và đã trải qua nhiều khó khǎn cũng như bệnh tật, trên máy bay ông bị đau tim, và tôi thực sự không nghĩ ông có thể sống sót qua cuộc hành trình này.
Tuy nhiên, trước khi đi ông đã với tôi rằng: “Nếu con có thể chịu được, Feef, thì ta cũng có thể! Đây là một thách thức cho con đấy!”.
Tôi có một tình cảm đặc biệt với Thầy, rất đặc biệt, bởi vì ông ấy và tôi có thể trò chuyện dễ dàng như tôi và Cô Ku vậy.
“Quỷ thần ơi!”, Cô Ku nói với giọng ảm đạm, “Tôi chắc chắn đã say mèm! Giá mà Tôi có thể cho ông Bác sĩ thú y già uống thuốc an thần để ông ta tự nếm mùi nhỉ. Mấy người Bác sĩ thú y thì biết gì về loài mèo chứ?”.
“Bây giờ là mấy giờ rồi Cô Ku?”, tôi hỏi. “Giờ à? Tôi chẳng biết nữa, Tôi mất hết khái niệm về thời gian rồi. Dù sao thì, đèn xanh đã tắt và người ta đã bật hết đèn sáng lên. Chắc gần đến giờ ǎn của họ rồi”.
Tôi bắt đầu nghe tiếng chén đĩa loảng xoảng, và những âm thanh nhỏ mà con người thường làm khi họ thức dậy. Tôi đã quen với việc bị mù, nhưng vẫn thấy THẬT bực bội khi không biết chuyện gì đang xảy ra. Bàn tay của Thầy vuốt ve tôi.
“Mèo Già Ngốc Nghếch”, ông bao, “còn lo lắng điều gì nữa? Dậy đi, tới giờ ǎn sáng rồi, chúng ta sẽ hạ cánh sớm thôi”.
Một giọng nói từ trên trần vang lên chói tai. “Xin quý khách vui lòng thắt dây an toàn, máy bay đang hạ cánh xuống Sân bay Quốc tế New York”.
Tôi nghe tiếng kim loại lạch cạch, rồi Thầy ôm chặt giỏ của tôi. Mũi máy bay chúc xuống và tiếng động cơ thay đổi. Có cảm giác trôi lơ lửng, sau đó động cơ hoạt động hết công suất. Một cú chạm đất và một tiếng rít của lốp xe. Một cú sóc nhỏ khác, và máy bay chậm chạp đi dọc theo đường bǎng.
Tiếp viên nói: “Xin quý khách vui lòng ngồi yên tại chỗ. Hãy đợi cho đến khi máy bay dừng hẳn”.
Máy bay từ từ di chuyển, Thỉnh thoảng có tiếng phanh khi Phi công rẽ và kiểm tra tốc độ. Một cú lê cuối cùng và chúng tôi dừng hẳn. Động cơ chậm lại rồi tắt.
Trong giây lát chỉ có tiếng thở, bỗng bên ngoài vang lên một tiếng CẠCH lớn, tiếp theo là tiếng kim loại va vào nhau. Một cánh cửa mở ra và luồng không khí lạnh tràn vào.
“Tạm biệt”, Người quan lý và cô tiếp viên nói, “Chúng tôi hy vọng được gặp lại quý khách trong những chuyến bay tới!”.
Chúng tôi đi bộ xuống thang, Thầy xách tôi, Mẹ xách Cô Ku còn Kẹo Bơ thì đi đằng sau. Trời lạnh cǎm cǎm khiến tôi không thể hiểu được.
“Brrr!” Cô Ku bực bội nói, “Hết trận say, giờ lại là trận tuyết này!”.
Gia đình vội vã đi nhanh để không phải ở ngoài trời lạnh lâu hơn cần thiết. Ngay sau đó chúng tôi bước vào một hội trường lớn. Cô Ku, người am hiểu mọi thứ, nói rằng đây là Sảnh Nhập cảnh và Hải quan, cũng là tòa nhà lớn nhất trên thế giới dành cho việc này. Thầy xuất trình tất cả các giấy tờ và chúng tôi được Nhập cảnh, đến Hải quan.
“Ông bà có gì phai khai báo không?” một giọng đàn ông hỏi.
“Thưa, không có gì để khai báo”, Thầy trả lời, “chúng tôi đang quá cảnh đến Canada”.
“Chúng là gì vậy, mèo à?”. Ông cán bộ Hai quan hỏi.
“À!” Một nữ cán bộ trả lời với một tiếng trầm trồ, “Tôi đã từng nhìn thấy giống mèo này trước đây. ĐẸP QUÁ !!”.
Chúng tôi được thông qua, dựa vào mùi, tôi biết một người đàn ông da màu đang mang các va-li của cả nhà, nhưng Thầy và Mẹ vẫn tự xách tôi và cô Ku. Ở sanh chính, Thầy phải ngồi nghỉ vì đuối sức, còn Mẹ đi gặp những người của hãng hàng không Mỹ, những người sẽ đưa chúng tôi bay đến Detroit. Bà đã đi rất lâu. Khi quay lại, bà sôi sục bực tức.
“Họ phá vỡ hợp đồng!” bà nói, “Họ sẽ không cho tụi mèo ở trong khoang hành khách, nói rằng chúng phải được để trong khoang hành lý, đó là quy tắc và quy định. Họ nói rằng lỗi là do mấy người ở Shannon”.
Tôi chợt cảm nhận rõ tuổi tác của mình, cảm thấy mình già nua. Tôi không nghĩ mình có thể sống sót trong khoang hành lý được nữa, khi đã có quá đủ trải nghiệm ở đó rồi, và ai có thể tưởng tượng được cô Ku sẽ chịu đựng điều đó chứ.
Thầy nói: “Nếu mấy con mèo không thể đi – chúng ta cũng sẽ không đi! Hãy quay lại và nói với bọn họ rằng chúng ta sẽ làm lớn chuyện, sẽ đòi lại tiền vì họ đã đồng ý cho lũ mèo đi cùng nếu chúng ta trả tiền trước ”.
Mẹ lại đi, và một lần nữa tất cả chúng tôi ngồi đợi. Cuối cùng, bà quay lại và nói:
“Tôi đã nói với họ rằng ông bị ốm, họ đang đưa chúng ta đến La Guardia bằng xe đặc biệt. Họ đề nghị chúng ta ở lại Nhà nghỉ lớn ở đó và chờ xem liệu Hãng hàng không có đổi ý”.
Chẳng bao lâu chúng tôi đã ở trong một chiếc xe hơi to, một chiếc Cadillac hoành tráng có ca máy lạnh.
“Trời!”, Kẹo bơ thốt lên khi chúng tôi nhập vào dòng giao thông đông đúc trên xa lộ New York, “tôi sẽ chẳng thích lái xe ở đây!”.
“Sẽ không sao nếu cô đi đúng làn đường của mình”, người Lái xe bảo.
Hai mươi phút sau chúng tôi đến một Nhà nghỉ mà Cô Ku bao tôi là Nhà nghỉ lớn nhất cô từng thấy. Chúng tôi đi vào cả.
“Ở đây có cho mèo Xiêm vào không?”, Thầy hỏi.
“Ồ, chúng dĩ nhiên là được chào đón ở đây!”, người đàn ông đứng sau quầy Lễ tân trả lời trong khi quan sát chúng tôi thật kỹ.
“Chúng RẤT được chào đón”, ông nhắc lại, vừa sắp xếp phòng cho chúng tôi. Quãng đường từ hành lang đến phòng dường như dài cả dặm.
“Nhà vệ sinh nữ, nhanh lên!”, cô Ku cuống quít. Tôi thấy biết ơn vì sự lên tiếng của cô. Những cái hộp cần thiết được bày ra nhanh chóng, kịp thời đóng góp vào sự dễ chịu và bình yên cho chúng tôi.
“Đồ ǎn đây”, Mẹ nói.
“Cho lũ mèo trước đi”, Thầy đáp.
Thời khóa hằng ngày của chúng tôi đã bị anh hưởng rất nhiều, nhưng vẫn có thể chấp nhận được. Chúng tôi lang thang xem hết cả ba cǎn phòng mà gia đình đã nhận, cũng như khám phá khu hành lang một cách rất cẩn trọng.
“Tôi nhìn thấy Sân bay”, Cô Ku nói, “kia hẳn là La Guardia”.
Mẹ đứng dậy, “Thôi!”, bà nói, “tôi sẽ đi gặp Hãng hàng không xem có thể làm gì”.
Cánh cửa đóng lại sau lưng bà, còn tôi và Cô Ku ngồi yên để trông nom Thầy. Chuyến hành trình này thật quá sức với ông, nó khiến ông phải nằm bẹp trên giường.
Kẹo Bơ bước vào phòng, “Làm sao chúng ta đến được Windsor nếu Hãng hàng không không chịu chở?”, cô hỏi.
“Tôi không biết nữa, có thể đi tàu chǎng”, Thầy đáp.
“Chúng ta có thể thuê nguyên một khoang để lũ mèo được ngồi cùng”, ông nói thêm.
Tôi đang ngủ chập chờn thì đúng lúc Mẹ quay lại.
“Họ sẽ không chở chúng ta trừ khi lũ mèo ở trong khoang hành lý”, bà nói. “Không được!”, Thầy dứt khoát “chúng ta sẽ tìm cách khác”.
Một khoang im lặng dài. Cô Ku và tôi ngồi cạnh nhau, cả hai đều chết khiếp khi nghĩ đến việc phải ở trong khoang hành lý; nhưng suy cho cùng, chúng tôi cũng không thể ở lại Nhà nghỉ này lâu được vì giá cả đắt đỏ.
“Chúng ta chỉ có thể thuê máy bay taxi thôi”, Mẹ nói.
“À”, thầy trả lời, “chúng ta sẽ lấy lại tiền cho vé từ La Guardia đến Detroit vì Hãng hàng không phá hợp đồng. Việc này sẽ giúp giam chi phí. Họ có nói nếu bay từ đây đi Canada thì sẽ tốn bao nhiêu không?”.
Mẹ nói ra số tiền họ ước tính và Thầy suýt nữa ngã ngửa vì sốc. Cô Ku và tôi cũng vậy.
Cuối cùng ông nói: “Hãy đặt máy bay cho sáng mai đi, nhưng nó phai đủ rộng để chở lũ mèo cùng với chúng ta đấy”.
Mẹ gật đầu đồng ý rồi trở ra.
Cô Ku và tôi tập thể dục bằng cách rượt đuổi quanh các phòng. Bởi đây là những cǎn phòng lạ nên Cô Ku phải nói cho tôi biết vị trí của các món đồ, trong khi chạy đằng trước. Tôi bám sát, chơi đùa và đồng thời cũng giai khuây cho Thầy, ông ấy thích được xem chúng tôi đuổi bắt và nhay nhót. Khi đã thấm mệt, Cô Ku dẫn tôi đến bên cửa sổ và kể về những tòa tháp của Manhattan nơi mà Thầy đã từng sống và làm việc cách đây vài nǎm.
Mẹ quay lại, nói rằng mọi thứ đã ổn thỏa, giờ này ngày mai chúng tôi sẽ có mặt ở Windsor Canada. Thế là chúng tôi ngồi uống trà, nghĩ ngợi về vùng đất mới mà mình sắp sửa đến. Màn đêm buông sớm. Cả nhà đi ngủ để nghỉ ngơi được nhiều nhất có thể; chuyến đi từ Howth thậm chí còn mệt mỏi hơn dự tính. Chỗ này là một Nhà nghỉ khá thoải mái, nhưng đắt đỏ vì nó ở gần Sân bay và New York, tuy nhiên Thầy sẽ không thể chịu đựng được cuộc hành trình mà không được nghỉ ngơi. Vào buổi sáng, chúng tôi ǎn sáng và chào tạm biệt người đàn ông ở Quầy lễ tân, anh ấy rất thích cô Ku và tôi, điều này khiến cô Ku có cam tình với anh ta. Vì Thầy bị ốm, và hành lý của chúng tôi khá nhiều, Nhà nghỉ cho một cái xe đưa chúng tôi qua đường, đến vǎn phòng của công ty Taxi hàng không. Một người đàn ông da màu rất dễ thương đã chở chúng tôi, anh ấy đảm bảo chúng tôi đến đúng vǎn phòng và đến gần nhất có thể.
“Tôi sẽ đợi ở đây, thưa Ngài”, anh nói với Thầy, “cho đến khi tôi thấy tất cả các vị đều đã ổn định”.
Cả nhà đi vào Vǎn phòng. Thoạt tiên chẳng ai ở đây biết về chúng tôi ca. Mãi sau, như thể có một bóng đèn lóe sáng trên đầu, một người đàn ông nhấc điện thoại.
“Chắc chắn! chắc chắn rồi!”, ông ta nói, “Phi công đang đến ngay bây giờ. Xin vui lòng đợi ở đây”.
Chúng tôi đợi một lúc, rồi thêm một lúc nữa. Cuối cùng, một người đàn ông chạy vội vào Vǎn phòng và nói: “Ông bà đi Canada đúng không?”
Chúng tôi trả lời đúng, Cô Ku và tôi cao giọng để nhấn mạnh.
“Ô kê”, người Phi công bao, “chúng tôi sẽ xếp hành lý của các vị lên máy bay, còn lũ mèo thì sao?”
“CHÚNG SẼ NGỒI TRONG MÁY BAY CÙNG CHÚNG TÔI!” Thầy qua quyết đáp.
”Được thôi, hai quý bà phải ngồi hàng ghế sau và giữ mỗi giỏ trên đùi nhé”. Nói rồi ông ta dẫn đường đến máy bay.
“Trời đất!”, Cô Ku kêu lên với giọng kinh ngạc, “thứ này chẳng khác gì một món đồ chơi ca! Hai động cơ, ba chỗ ngồi cộng ghế Phi công, bốn chỗ tất cả. Ba bánh xe dưới gầm. Quỷ thần ơi!” cô kêu lên với giọng hoảng hốt.
“Tôi không hiểu làm sao Thầy có thể đặt vừa mông vào cái ghế nhỏ như vậy được. Làm sao chứ”, cô la lên hốt hoang, “viên Phi công thậm chí còn phải cạo đầu để tiết kiệm diện tích nữa đấy”.
Mẹ và Kẹo Bơ đi lên chiếc máy bay mà theo như cô Ku nói thì chỗ ngồi bên trong chỉ như một chiếc ô tô nhỏ, chỗ ngồi ở hàng ghế sau vừa vặn hai người cỡ trung bình. Mẹ thì khá tròn trịa, còn Kẹo Bơ thì manh mai, bởi vậy hai người họ gộp lại cũng thành hai người trung bình. Tôi cảm nhận toàn bộ máy bay lắc lư khi Thầy bước lên. Ông ấy nặng khoảng một trǎm linh hai cân (có thể đã giam mất gần một cân trong chuyến đi) và thế là máy bay hơi nghiêng một chút. Phi công chắc hẳn là người nhỏ con nhất trong đội, bởi vì trọng lượng của anh ta dường như không anh hưởng gì. Anh ta khởi động lần lượt các động cơ, để chúng nóng lên, sau đó tha phanh, và di chuyển từ từ. Chúng tôi di chuyển vài dặm trên mặt đất, đến đầu kia của sân bay. Cô Ku đã bình luận cho tôi suốt quãng đường.
“Ôi chao!” cô ấy kêu lên, “có vẻ như tất cả các máy bay ở Mỹ đều cất cánh từ đây; phải ít nhất mỗi phút một chiếc”.
Đột nhiên viên Phi công thốt ra một từ RẤT bậy, rồi đột ngột xoay máy bay sang ngang, ra khỏi đường bǎng chính.
“Chúng ta bị xịt lốp”, anh ta gầm gừ, “Phi công của chiếc máy bay kia vừa điện đàm cho tôi”.
Sau lưng chúng tôi là tiếng còi đinh tai nhức óc và tiếng gầm rú của động cơ. Ca một đoàn xe ô tô lao khỏi đường bǎng và bao vây chúng tôi.
“Ôi chao!” Cô Ku hét lên trên tiếng ồn, “họ gọi cả Lính Quốc Phòng!”.
Cô thận trọng nhìn qua phía dưới cửa sổ, cụp tai để không bị phát hiện. “Cảnh sát, rất nhiều cảnh sát, có cả đội cứu hỏa, và một đoàn xe chở bảo vệ sân bay, họ cũng có một chiếc xe tải. Quỷ thần ơi! ”.
“Trời ạ!” Thầy thốt lên, “có mỗi một chiếc lốp xẹp mà náo động ghê gớm”.
Người tản ra xung quanh, tiếng còi báo động phát ra những tiếng inh ỏi cuối cùng, tiếng động cơ ô tô hòa với tiếng máy bay đang tǎng tốc trước khi cất cánh. Rồi có tiếng động mạnh đột ngột và phập phồng bên dưới chúng tôi, máy bay được nâng lên khỏi mặt đất vài inch để có thể tháo lốp xe bị xịt. Vài chiếc xe lao đi, sau đó chiếc xe tải cũng chạy đi cùng với chiếc lốp cũ. Chúng tôi ngồi lại để chờ đợi. Đợi một giờ, rồi hai giờ.
“Lúc nãy mà ĐI BỘ có khi cũng đến Canada rồi!”, Thầy nói lộ rõ vẻ phiền toái.
Chiếc xe tai thong thả quay trở lại đường công vụ bên cạnh đường bǎng. Một cách nhàn nhã, đúng hơn là uể oải, mấy gã này thả mình ra khỏi xe và đi tới máy bay của chúng tôi. Cuối cùng thì lốp xe đã được cố định lại và chiếc xe tải phóng đi. Phi công khởi động lại động cơ để làm ấm chúng. Nói vào micrô với Đài kiểm soát không lưu, phi công thông báo đã sẵn sàng cất cánh. Cuối cùng cũng được phê duyệt, anh ta mở hai cần gạt, lao máy bay xuống đường bǎng và nâng nó từ từ lên không trung. Bay lên một cách từ từ, giữ ở vị trí thấp hơn các chuyến bay thương mại, viên Phi công ổn định hướng và bay là là.
Chúng tôi bay, bay và bay, nhưng dường như chẳng đến được đâu cả. “Chúng ta đang bang ở tốc độ nào vậy Cô Ku?”, tôi hỏi.
Cô rướn cổ, nhìn qua vai viên Phi công.
“Một trǎm hai mươi lǎm, độ cao sáu ngàn feet, la bàn chỉ hướng Tây Bắc”, Cô Ku trả lời.
Tôi cảm thấy thật ghanh tỵ với kiến thức, cũng như thị giác của cô. Tôi thì chỉ có thể ngồi yên một chỗ, phụ thuộc vào người khác nói cho mình nghe mọi thứ. Dù vậy, tôi cũng nghĩ, so với tất cả những chuyến bay mà mình đã nằm bất tỉnh trong hộp, chuyến này thật tốt hơn RẤT nhiều, giờ đây tôi đang được đối xử còn TỐT Hơn cả con người nữa, vì tôi đang ngồi trong lòng Mẹ.
HẾT